Nh Thy Nguyn Ngc Huy

Ln gi th 21, ti San Jose,

ngày 6 tháng 8, năm 2011

 

Vit Hi

 

 

Trưa ngày thứ Bảy, 06 tháng 8, 2011 hội trường của Trung Tâm Văn Hóa Việt Mỹ, tọa lạc tại 2290 Tully Road, San Jose, đầy ắp quan khách tham dự. Đảng Tân Đại Việt do bác sĩ Mă Xái lănh đạo, cùng các tổ chức bạn như Đại Gia Đ́nh Nguyễn Ngọc Huy, Nguyễn Ngọc Huy Foundation, Đại Việt Quốc Dân Đảng, Liên Minh Dân Chủ Việt Nam, Ủy Ban Hoàng Sa, Liên Đoàn Cử Tri Bắc Cali và Hội Cao Niên Diên Hồng đă tổ chức Lễ Tưởng Niệm Cố Giáo Sư Nguyễn Ngọc Huy thật trọng thể, cùng một hội luận chính trị sau đó, trong bài viết Thư Cho Con, Giáo sư Trần Minh Xuân ghi nhận những chi tiết về buổi lễ này. Tôi xin trích đoạn mà ông đă viết như sau:

 

"...nghi thức tưởng niệm lần thứ 21 cố Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy qua đời được bắt đầu với phần niệm hương trước bàn thờ Tổ Quốc có thiết đặt di ảnh người quá cố và ông Hoài Sơn Ung Ngọc Nghĩa [xem h́nh] được mời lên diễn đàn kể lại cuộc đời và sự nghiệp đấu tranh cho một nước Việt Nam Độc lập, Tự do, Dân chủ Hiến định và Pháp trị của cố Giáo sư. Được biết ông Hoài Sơn là người bạn sát cánh đấu tranh với cố Giáo sư kể từ ngày đầu hai người tham gia Đảng Đại Việt do Đảng trưởng Trương Tử Anh lănh đạo. Ông nói:

 

“Giáo Sư Huy sanh năm 1924, mất năm 1990, thọ 66 tuổi. Trong 66 năm của cuộc đời, ông đă tranh đấu liên tiếp không ngừng trong 45 năm trời, từ năm 1945 đến năm 1990, năm ông ĺa đời. V́ ông là người có tài, có đức, có chí lớn, lại tranh đấu lâu năm như vậy nên các đồng chí và các môn sinh của ông rất đổi kính phục ông. V́ đó, năm nào đến ngày giỗ của ông, họ cũng đều làm lễ tưởng niệm rất trọng thể, không những tại trong nước, tại Hoa Kỳ, tại Canada, tại Âu Châu, mà cả tại Úc Châu nữa”..."

 

Thật vậy, Giáo Sư Nguyễn Ngọc Huy là một nhà ái quốc, một chí sĩ suốt đời phục vụ những lư tưởng cho dân tộc Việt Nam, những điều tốt về ông đă được các học giả, các sử gia, các b́nh luận gia hay các đồng chí của ông đề cập khá nhiều. Bài viết này nhằm tổng hợp đôi nét chính do các tác giả Trần Nguyên, Nhữ Đ́nh Hùng, Trần Minh Xuân, Mai Thanh Truyết và Phan Văn Song đă nhận định về ông.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Tôi có dịp học môn chính trị học do Giáo Sư Nguyễn Ngọc Huy diễn giảng tại đại học Kinh Tế và Thương Mại Minh Đức, cảm nhận lăng văng trong trí nhớ của tôi về người thầy cũ này là ông có nụ cười hiền ḥa, là một nhà hùng biện với kiến thức uyên thâm, say mê diễn giảng rất suôn sẽ những bài giảng, những sinh viên chúng tôi im lặng chăm chú nghe ông nói, ông có trí nhớ dai, những sự kiện về chính trị Việt Nam và thế giới, ông am tường như bộ nhớ của máy điện toán, khi chúng tôi tṛ chuyện hay nêu lên những thắc mắc, ông thân thiện giải đáp hay thảo luận rất cởi mở. Năm 1990 Giáo Sư Huy qua đời ở Pháp khi sang tham dự buổi họp quan trọng của Liên Minh Dân Chủ Việt Nam do ông thành lập, năm nay nhân lễ kỷ niệm lần thứ 21, tôi cùng các bạn đồng môn Cao Thái Hải và Lưu Tấn Xuân tham dự lễ giỗ tại Bắc Cali và thắp nhang để tưởng nhớ đến vị thầy khả kính, người đă cống hiến trọn cuộc đời cho quốc gia và dân tộc Việt Nam. Điểm cần nêu lên thầy Huy c̣n là một nhà văn biên khảo, viết khảo luận về những chủ đề chính trị, luật pháp, xă hội,... và làm thơ dưới thi hiệu Đằng Phương. Thầy Huy tham gia chính trị năm 21 tuổi, thơ ông nói lên bầu nhiệt huyết v́ quê hương, những khát vọng như lẽ sống của tuổi trẻ đấu tranh cho sự tự do, nhân quyền và dân chủ cho nước nhà, thơ rằng:

 

"Tranh đấu cho dân tộc sống c̣n,

Liều ḿnh để phục vụ giang sơn !

Đó là lẽ sống người trai Việt,

Muôn thuở không sờn dạ sắt son"

 

Bốn câu thơ trên trong bài Lẽ sống, được trích ra từ Tập thơ Hồn Việt. Trong cùng thi tập này ông cho những ḍng thơ gởi các bạn đồng lư tưởng, ông kêu gọi mọi người hăy chung tay v́ đại cuộc:

 

“Hỡi những bạn đồng hành chung lư tưởng,

Chung nguyện thề, chung ước vọng cùng nhau,

Hồn mân mê một mục đích cao sâu,

Ḷng dào dạt một mối t́nh sông núi"

 

Tham khảo bài viết "Nhân tài xứ bưởi Biên Ḥa: Giáo Sư Nguyễn Ngọc Huy" của tác giả Trần Nguyên cho phần tiểu sử của Giáo Sư Nguyễn Ngọc Huy như sau:

 

 

"Ông sanh vào ngày 2 tháng 11 năm 1924, quê tại Mỹ Lộc, quận Tân Uyên, tỉnh Biên Ḥa.

 

Văn bằng:

- 1963: Tiến Sĩ Chánh Trị Học, Trường Đại Học Luật Khoa & Kinh Tế Paris. Luận án: “Đề tài người ưu tú trong tư tưởng chánh trị Trung Quốc cổ thời”

- 1960: Cao Học Chánh Trị, Trường Đại Học Luật Khoa & Kinh Tế Paris.

- 1959: Cử Nhơn Luật Khoa và Kinh Tế, Viện Đại Học Paris.

- Tốt nghiệp Viện Nghiên Cứu Chánh Trị  Đại Học Paris.

- Tự học thi đậu bằng Tú Tài.

- Học sinh trường Pétrus Trương Vĩnh Kư, thi đậu bằng Trung Học. Một trong học sinh đậu xuất sắc nhứt tại Đông Dương (xem phim tài liệu về Thân Thế & Sự Nghiệp Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy / Câu Lạc Bộ Đằng Phương thực hiện năm 2007).

 

Chức vụ:

* Trong Ngành Giảng Huấn:

- Từ 1976: Phụ Khảo tại Trường Đại Học Luật Khoa Harvard (Hoa Kỳ).

- 1965-1975: Giáo Sư Chánh Trị Học và Luật Hiến Pháp ở Học Viện Quốc Gia Hành Chánh tại Sài G̣n, Trường Đại Học Luật Khoa và Khoa Học Xă Hội tại Cần Thơ, Trường Đại Học Sư Phạm tại Sài G̣n, Trường Đại Học Luật Khoa tại Huế. Ngoài ra c̣n giảng dạy tại các Trường Đại Học Đà Lạt, Vạn Hạnh, Minh Đức, Minh Trí... và ở Trường Cao Đẳng Quốc Pḥng, Trường Chỉ Huy Tham Mưu Cao Cấp, Trường Đại Học Chiến Tranh Chánh Trị.

- 1967-1968: Khoa Trưởng Luật Khoa và Khoa Học Xă Hội tại Cần Thơ.

 

Trong Chánh Quyền:

- 1973 và 1968-1970: Nhơn viên phái đoàn tham dự thương thuyết Ḥa Đàm Paris.

- 1967: Hội Viên Hội Đồng Dân Quân.

- 1964: Đổng Lư Văn Pḥng Phủ Phó Thủ Tướng Đặc Trách B́nh Định.

 

Hoạt Động Chánh Trị:

- Từ 1986: Hội Viên Ủy Ban Danh Dự của Ủy Ban Quốc Tế Yểm Trợ VN Tự Do.

- Từ 1981: Chủ Tịch Ủy Ban Chấp Hành Trung Ương Liên Minh Dân Chủ Việt Nam.

- 1973-1975: Đồng Chủ Tịch Liên Minh Quốc Gia Dân Chủ Xă Hội (gồm 6 đảng).

- 1969-1975: Tổng Thơ Kư Phong Trào Quốc Gia Cấp Tiến.

- 1964-1990: Thành lập đảng Tân Đại Việt và là lănh đạo đảng cho đến năm 1990.

- 1945-1964: Đảng viên Đại Việt Quốc Dân Đảng và tham dự Ủy Ban Chấp Hành Trung Ương năm 1948.

 

Tưởng Lục:

- WHO'S WHO đông bộ Hoa Kỳ, ấn bản lần thứ 18, 1981-1982.

- Giải thưởng của Viện Đại Học Paris trao luận án Tiến sĩ xuất sắc nhất trong năm.

 

Chuyên Môn:

- Luật Hiến Pháp, Tư Tưởng Chánh Trị, Định Chế Chánh Trị, Bang Giao Quốc Tế.

- Thông thạo ngôn ngữ Việt, Pháp, Anh và Hán văn.

 

Tác phẩm:

* Tiếng Việt:

1. HỒN VIỆT, thơ, Sài G̣n, 1950, tái bản ở Paris năm 1984.

2. QUỐC TRIỀU H̀NH LUẬT (Quyển A), Việt Publisher, Canada, 1990.

3. DÂN TỘC SINH TỒN, chủ thuyết của Đại Việt Quốc Dân Đảng, được bổ túc, phong phú hóa và thâu nhận các nguyên tắc tự do dân chủ, (2 quyển), Sài G̣n, 1964.

4. DÂN TỘC HAY GIAI CẤP ?

5. BIỆN CHỨNG DUY XẠO LUẬN (Trào phúng).

6. CÁC ẨN SỐ CHÁNH TRỊ TRONG TIỂU THUYẾT VƠ HIỆP KIM DUNG, Thanh Phương Thư Quán, San Jose, Hoa Kỳ, 1986.

7. HÀN PHI TỬ: bản dịch ra Việt ngữ tác phẩm của Hàn Phi, nhà lư thuyết trứ danh của học phái Pháp Gia Trung Quốc, (2 quyển), Lửa Thiêng, Sài G̣n, 1974.

8. LỊCH SỬ CÁC HỌC THUYẾT CHÁNH TRỊ, Cấp Tiến, Sài G̣n, 1970-1971.

9. ĐỀ TÀI NGƯỜI ƯU TÚ TRONG TƯ TƯỞNG CHÁNH TRỊ TRUNG QUỐC CỔ THỜI, bản dịch Luận án Tiến sĩ viết bằng tiếng Pháp, Cấp Tiến, Sài G̣n, 1969.

10. Tên Họ Người Việt Nam . Mekong-Tỵnạn, California, USA

- Cùng viết với Gs Trần Minh Xuân (2 cuốn 11 và 12 trong danh sách này):

 

11. Hiệu đính và chú thích LỤC SÚC TRANH CÔNG. Đi t́m tác giả và dụng ư chánh trị trong tác phẩm. Mekong-Tỵnạn, California, USA, 1991.

12. HỒ CHÍ MINH: TỘI PHẠM NHƠN QUYỀN VIỆT NAM. Mekong-Tỵnạn, USA, 1992.

 

* Tiếng Pháp:

13. POUR UNE NOUVELLE STRATÉGIE DE DÉFENSE DU MONDE LIBRE CONTRE L'EXPANSION COMMUNISTE, Alliance Pour La Démocratie Au Vietnam, Paris, 1985.

* Tiếng Anh:

14. THE LÊ CODE: LAW IN TRADITIONAL VIETNAM, bản dịch ra tiếng Anh và chú thích bộ QUỐC TRIỀU H̀NH LUẬT, tục danh LUẬT HỒNG ĐỨC của nhà Lê (1428-1788), Ohio University Press, Hoa Kỳ, 1987 - cùng viết với Gs Tạ Văn Tài và Gs Trần Văn Liêm -

15. A NEW STRATEGY TO DEFEND THE FREE WORLD AGAINST COMMUNIST EXPANSION, Alliance For Democracy In Vietnam, 1985.

16. PERESTROIKA OR THE REVENGE OF MARXISM OVER LENINISM, Việt Publisher, Canada, 1990.

Cùng viết với Gs Stephen B. Young (2 cuốn 16 và 17 trong danh sách này)

 

17. UNDERSTANDING VIETNAM, do T.D.T. Thomason xuất bản, The Displaced Persons Center Information Service, Bussum, The Netherlands.

18. THE TRADITION OF HUMAN RIGHTS IN CHINA AND VIETNAM, Yale Southeast Asia Studies, The LẠC VIỆT Series, New Haven, CT, USA, 1990.

 

Bài Đăng Báo:

* Tiếng Việt:

- 1947-1990: Bài nhận định T́nh H́nh Thế Giới Trong Tháng Vừa Qua cùng nhiều bài báo về văn hóa & chánh trị Việt Nam trên nhiều tờ báo tiếng Việt ở trong và ngoài nước, như TỰ DO DÂN BẢN,  ĐƯỜNG MỚI, MEKONG-TỴNẠN, SAIGON, THẰNG MƠ, HỒN VIÊT, HƯỚNG VIỆT, DIỄN ĐÀN VIỆT NAM, CẤP TIẾN, DÂN QUYỀN, LỬA THIÊNG, QUỐC PH̉NG, ĐUỐC VIỆT, THANH NIÊN ...

 

* Tiếng Pháp:

- LA FRANCE ET LE VIETNAMIEN PARTISAN DE LA DÉMOCRATIE LIBÉRALE, trong ĐƯỜNG MỚI, Pháp Quốc, số 4, 1985.

- LE CODE DES LÊ, nhận xét về bản dịch bộ luật nhà Lê ra tiếng Pháp của Ông Deloustal và về niên biểu ấn hành của bộ luật này, trong BULLETIN DE L'ÉCOLE FRANCAISE D'EXTRÊME ORIENT, Quyển LXVII, Pháp Quốc, 1980.

 

* Tiếng Anh:

- Cùng viết với Gs Tạ Văn Tài: THE VIETNAMESE LEGAL TEXTS, trong THE LAW OF SOUTH-EAST ASIA, Quyển 1, THE PRE-MODERN TEXTS, do M.B. Hooker xuất bản, Butterworth & Co, 1986.

- LIMITS ON STATE POWER IN TRADITIONAL CHINA AND VIETNAM, trong THE VIETNAM FORUM, Ban Nghiên Cứu Đông Nam Á Châu của Đại Học Yale, Hoa Kỳ, số 6, Hè-Thu 1985.

- THE MING CODE IN VIETNAMESE LEGAL HISTORY: ITS INFLUENCE ON THE VIETNAMESE CODES AND OTHER LEGAL DOCUMENTS, trong MING STUDIES, số 19, Thu 1984.

- ON THE PROCESS OF CODIFICATION OF THE NATIONAL DYNASTƯS PENAL LAWS, trong THE VIETNAM FORUM, Ban Nghiên Cứu Đông Nam Á Châu của Đại Học Yale, Hoa Kỳ, số 1, Đông-Xuân 1983.

- THE PENAL CODE OF VIETNAM'S LÊ DYNASTY, trong STATE AND LAW IN EAST ASIA, để kỷ niệm ngày Ông Karl Bunger trí sĩ, do Dieter Eikemeier và Herber Franke xuất bản, Otto Harrassowitz, Weisbaden, 1981. "

 

 

Trong bài viết của tác giả Nhữ Đ́nh Hùng mang tựa "Tưởng Niệm Cố Giáo Sư Nguyễn Ngọc Huy" ghi nhận là về sau v́ những quan điểm dị biệt nên trong nội bộ của tổ chức Đại  Việt, Giáo Sư Huy đă cùng với xứ bộ miền Nam thành lập Tân Đại Việt. Kết hợp nhiều nhân sĩ, Giáo Sư Huy đă cho thành lập Phong Trào Quốc Gia CấpTiến mà lập trường của Phong Trào là ủng hộ chánh phủ quốc gia Việt Nam Cộng Ḥa trong mọi nỗ lực chống Cộng Sản, tuy Phong Trào không tham chánh, nhưng có những đóng góp xây dựng và đ̣i hỏi chánh phủ phải thực thi dân chủ và bài trừ nạn tham nhũng, nạn bè phái trong guồng máy chánh quyền. Rồi từ năm 1965, ông làm giáo sư cho Học Viện Quốc Gia Hành Chánh, phụ trách dạy môn Chánh Trị Học và Luật Hiến Pháp. Ông c̣n là giảng viên cho nhiều viện đại học khác như Đại Học Đà Lạt, Huế, Cần Thơ, Vạn Hạnh, Minh Đức và Đại học Sư Phạm Sài G̣n. Ông cũng được mời làm giảng viên chánh trị cho các trường quân sự như Trường Cao Đẳng Quốc Pḥng, Trường Tham Mưu Cao Cấp, và Trường Đại học Chiến Tranh Chính Trị; Ông làm Khoa trưởng Trường Đại học Luật Khoa và Khoa Học Xă Hội Cần Thơ vào năm 1967, tham dự phái đoàn hoà đàm Paris 1968 và 1973. Sau khi VNCH mất, từ năm 1975 ông làm chuyên gia khảo cứu cho Viện Đại Học Harvard, tham dự việc dịch bộ luật Hồng Đức ra anh ngữ và lo việc chú thích bộ luật này. Trong khi đó, ông vẫn tiếp tục việc tranh đấu tích cực chống Cộng Sản, liên kết với các nhân sĩ, cựu đồng chí, môn đệ và những người yêu nước để thành lập Liên Minh Dân Chủ Việt Nam từ năm 1981 và liên tục hoạt động cho đến khi từ trần vào ngày thứ bảy 28/7/90 vào lúc 9giờ 30 tối tại nhà một đồng chí ở Paris, trong lúc ông đang chuẩn bị tham dự Đại hội LMDCVN thế giới kỳ I.

 

Những nhà đấu tranh thường bôn ba lưu lạc đó đây như Phan Bội Châu, Tạ Thu Thâu, Nguyễn An Ninh hay Trương Tử Anh, Thầy Huy cũng rầy đây mai đó, ông cổ xúy cho những nguyên tắc tự do và dân chủ hợp hiến, tránh nạn độc tài và thể chế trọng việc đề cao lănh tụ, cá nhân ông xác định rơ lập trường không tham chính t́m kiếm địa vị, chức tước hay quyền thế trong chính quyền, theo một cách nh́n nào đó nếu ông có làm được điều ǵ th́ như một chiến sĩ vô danh mà thôi, ông sống với cái lư tưởng cao cả của ḿnh, hăy nghe ông tâm sự trong thơ:

 

“Tranh đấu cho dân tộc sống c̣n,

Liều ḿnh để phục vụ giang sơn,

Đó là lẽ sống người trai Việt,

Muôn thuở không sờn dạ sắt son"

 

Mỗi công dân trong xă hội lựa chọn cho ḿnh những hướng đi riêng, những lư tưởng sống riêng, Giáo Sư Nguyễn Ngọc Huy trưởng thành trong tấm ḷng nồng nàn với quê hương, một t́nh yêu chân chất cho Tổ Quốc hay cho Mẹ Việt Nam theo nghĩa rộng. Những bài tham luận ưu tư về nước nhà, những vần thơ đầy ắp t́nh quê hương, đầy rung động với hồn Việt Nam đă được ông kư thác nỗi ḷng. Cái thua thiệt của những tâm hồn hy sinh v́ đại sự, khi tổ quốc đè nặng bờ vai, có thể tâm thức họ bị ray rứt phải xa ĺa mẹ cha, xa xăm vợ con hay xa vắng chồng con, xa cách gia đ́nh dù là nhỏ hay lớn, cái t́nh yêu nhỏ của lứa đôi phải nhường cho t́nh yêu lớn của quốc gia, của đại nghĩa mà bao anh hùng liệt nữ của dân tộc hay những chiến binh Việt Nam Cộng Ḥa phải chấp nhận một nguyên tắc chung, dù nó tiềm ẩn từ sự chọn lựa bị ràng buộc bởi nội tâm, một qui luật bất thành văn của t́nh yêu quê hương đất nước. Thầy Huy của tôi làm thơ tạ lỗi với mẹ già v́ phải lặn lội ly hương v́ đất nước mà đă không làm tṛn được chữ hiếu, hiếu đạo không tṛn khiến cho con người trở nên đau khổ:

 

"Đời cách mạng tự bao lâu bôn tẩu,

Để mẹ già sống cực nhọc lầm than,

Trước những gịng lệ ngọc ứa chan chan,

Ḷng con há dửng dưng không cảm xúc,

Nhưng cũng đă trót làm cho mẹ khóc”

 

Thầy Huy bộc bạch ư tưởng tiếp trong "Lời nguyện cầu của những kẻ làm cho Mẹ khóc":

 

“Và con sẽ phải làm cho mẹ khóc,

Hỡi quê hương, hỡi đất nước thân yêu,

Dầu gian truân khổ cực bao nhiêu,

Chúng tôi vẫn sẵn sàng nhận lấy,"

 

T́nh mẫu tử này xin dành cho t́nh yêu non sông gấm vóc để ngày mai toàn dân Việt Nam được hưởng quang cảnh thái b́nh:

 

"Chỉ mong ước một ngày mai được thấy,

Cả non sông giống Việt hết điêu linh,

Cả toàn dân giống Việt được thanh b́nh,

Và chỉ dẫu một ngày hay một buổi."

 

Lời thơ như khẩn thiết van xin người hăy thứ lỗi cho người con nhất nguyện chốn dương trần mang lại tự do, công b́nh và bác ái, những lư tưởng mà Mẹ Việt Nam có lẽ đă thấu hiểu và thông cảm hơn ai hết:

 

"Dẫu một phút hay một giây ngắn ngủi

Được như lời nhất nguyện chốn dương trần,

C̣n có cơ qú dưới gối từ thân,

Để khẩn thiết cúi xin người thứ lỗi"

 

GS. Phan Văn Song

 

Tôi xem bài viết của Giáo Sư Phan Văn Song gởi đi từ Pháp trong bài "Tháng Bảy, nhớ Chú Ba", thân phụ của Giáo Sư Song là một đồng chí chí thân với Giáo Sư Nguyễn Ngọc Huy, nên trong sự gần gủi đó Giáo Sư Song ghi nhận:

 

"Giáo Sư Nguyễn Ngọc Huy là nhà thơ, một nhà văn, một nhà nghiên cứu khoa học chánh trị, một nhà b́nh luận chánh trị, và ông cũng là một nhà giáo, và một nhà mô phạm lớn. Ngoài tài đức của một nhà mô phạm, ông lại là một lănh đạo chánh trị biểu hiện được đức tín của người xưa.

 

Chính cái đạo đức, tư cách, tấm ḷng, nếp sống của Giáo Sư Nguyễn Ngọc Huy đă tạo cho các người lănh đạo Đảng ngày nay một tấm gương sáng, để trông vào gương là cấp dưới tuân thủ mà không cần đến nghiêm lịnh.

 

Ngoài cái đức theo nghĩa đạo lư kia. Giáo Sư Nguyễn Ngọc Huy c̣n hội đủ những đức tánh theo quan niệm đạo lư chánh trị thời xưa: lập Đức, lập Ngôn, lập Công. Tôi đă nhiều lần nói đến đức tánh ấy của Giáo Sư. Hôm nay tôi xin lặp lại để quư đồng chí, quư chiến hữu nhớ và trông vào cái gương sáng của Người.

 

Lập Đức, có lẽ không một ai hoài nghi về đức độ và ḷng bao dung của Giáo Sư Nguyễn Ngọc Huy đối với chiến hữu, với bạn bè và cả với mọi người anh em quen biết xa gần.

 

Lập Ngôn, hay lập Thuyết phải nói đến nền tảng của Giáo Sư Nguyễn Ngọc Huy là Dân chủ. Mà Dân chủ nào? Ông không bao giờ nói đến Dân chủ đa nguyên. Dân chủ đương nhiên là đa nguyên rồi. Dân Chủ mà ông khai triển để lập chánh thuyết cho đoàn thể của ông từ trước năm 1975 ở Việt Nam là Dân chủ Pháp trị và Dân chủ dân bản.

 

C̣n nói về lập Công, nếu ngày trước, Đại Việt Quốc Dân Đảng đă tin tưởng và giao cho ông những chức vụ then chốt để cuối cùng ông trở thành vị lănh đạo, th́ sau ngày ra hải ngoại, ông ráo riết xây dựng một dư luận chánh trị Việt Nam cho cuộc đấu tranh giải phóng quê hương. Ông có cái nh́n tổng hợp, theo định hướng thực hiện ba yếu tố, mà người ta gọi đó là công án hay phương tŕnh Nguyễn Ngọc Huy: hải ngoại – quốc tế – quốc nội."

 

Kế đến, Tiến Sĩ Mai Thanh Truyết, một thành viên cốt cán trong Đại Việt Quốc Dân Đảng, đă viết bài tham luận "Kỷ niệm về Anh Ba năm 2011". Giáo Sư Nguyễn Ngọc Huy là người con thứ ba trong gia đ́nh nên trong t́nh thân, những đàn em ông gọi ông là "anh Ba Huy". Tiến Sĩ Truyết đề cập về đảng Đại Việt và Con đường đang đi. Đại Việt nguyên thủy là mẫu số chung trước khi mẫu số chung này được chia ra 3 tổ chức, mà có thể được hiểu như sự tế phân ra 3 "hệ phái" là Đại Việt Quốc Dân Đảng, Tân Đại Việt và Đại Việt Cách Mạng Đảng.

 

 

Nếu như trên bước đường tranh đấu, v́ chủ trương hay phương pháp khác nhau mà tách ra, Giáo Sư Nguyễn Ngọc Huy vẫn luôn luôn tôn trọng các bạn đồng hành theo đuổi chung một mục tiêu chính yếu là chống chế độ Cộng sản độc tài và cùng các đoàn thể anh em phụng sự những lợi ích chung cho quê hương dân tộc. Bài đường thi Hai Ngă trong thi tập Hồn Việt, trang 83, Thầy Huy cho thấy dù đi khác nẻo đường, khác phương thức, t́nh anh em cùng một Mẹ Việt Nam, vẫn chia sẻ điểm chung là phục vụ quê hương:

 

“Ví dẫu đang đi khác nẻo đường,

Ta cùng lo phụng sự quê hương,

Ngày mai mới biết trong hai ngă,

Đâu đă đem về được ánh dương !

Em cứ đường em, anh nẻo anh,

Miễn sao chung một ư chơn thành,

Ta cùng bền chí lo tranh đấu,

Đến lúc san hà rạng vẻ thanh”

 

Tiến Sĩ Mai Thanh Truyết ghi nhận tiếp sự kiện của quá khứ khi Cố Đảng Trưởng Trương Tử Anh khai sáng và xây dựng Đại Việt khi Người vừa mới 25 tuổi, nhưng đă có khả năng tạo lập thuyết "Dân Tộc Sinh Tồn" (DTST) mang ư nghĩa:

 

"(a)  để làm khung cho nền tảng lư luận,

(b)  để điều hướng hoạt động đấu tranh vững mạnh cho các  mục tiêu chiến lược lâu dài, và

(d) để tạo điều kiện cho Đại Việt trường tồn đến ngày nay.

 

Trên trận tuyến đấu tranh chống CSVN hiện tại, Đại Việt có thể giương cao ngọn cờ DTST, đặt trên căn bản đầy t́nh tự dân tộc và nhân bản, làm đối lực đương đầu với chủ nghĩa CS vô thần, mị dân, với ảo tưởng dựng nên một nước VN xă hội chủ nghĩa mà ngay cả những người đề xướng ra cũng không xác định được xă hội chủ nghĩa cụ thể là ǵ.

 

Mỗi người trong chúng ta, dù có những suy nghĩ nào dị biệt đi nữa, cũng khó có thể phủ nhận được tính cách mạng đầy nhân bản của chủ thuyết DTST. Chính chủ thuyết nầy, theo quan điểm của riêng tôi, cho đến ngày hôm nay, vẫn c̣n là một đối trọng vững chắc, đối với ư thức hệ của chủ thuyết Cộng sản, để từ đó áp dụng vào các điều kiện thực tế Việt Nam, hầu thúc đẩy nhanh hơn tiến tŕnh dân chủ hóa Việt Nam.

 

Đó là một xác quyết.

 

Chúng tôi muốn lập lại một lần nữa, trước tiến tŕnh t0àn cầu hóa hiện nay, cùng với vai tṛ của từng quốc gia trên thế giới, dù muốn dù không, Việt Nam cần phải hội nhập vào cộng đồng nhân loại, trong đó chủ thuyết DTST có khả năng không phải để chuyển hóa, nhưng để xóa tan chủ nghĩa CS hiện đang cai trị Việt Nam."

 

 

Theo tiến tŕnh biến hóa của sự chuyển hướng của thế giới, sự sắp xếp mới của trật tự toàn cầu hóa hậu chiến tranh lạnh, tổ chức cần có những sự đổi thay cho thích ứng mới, Tiến Sĩ Truyết cho biết tiếp:

 

"Thuyết Dân Tộc Sinh Tồn (DTST) là một sự chuyển hướng lớn về luận thuyết của Đại Việt. Tên tuổi của GS Huy đă đựợc nằm trong danh sách những người khai sáng và tiếp nối truyền

thống Đại Việt. GS Huy c̣n đă đưa ra một số điều kiện cho sự sinh tồn trong luận thuyết biến cải cùng 2 h́nh thức tranh đấu dựa theo hai nguyên tắc đối nội và đối ngoại. Đó là hai h́nh thức tranh đấu bên ngoài thân và tranh đấu bên trong, với chính nôị tâm của ḿnh.

 

(a)  Từ suy nghĩ trên, công cuộc tranh đấu của GS Huy được thể hiện dưới h́nh thức ôn ḥa hay bạo động tuỳ theo trường hợp và tùy theo diễn biến của ḥan cảnh chính trị quốc gia trong từng thời điểm vừa nói.

(b)  Từ sự nhận định những khả năng tranh đấu vừa nói, GS Huy đă khai triển thêm thành ba bước khác nhau như 3 định luật, để rồi căn cứ theo đó mà hành xử, tuỳ theo t́nh huống đang xảy ra. Đó là luật sức mạnh, luật biến cải, luật hợp quần và giáo dục.

 

1.  Luật sức mạnh, đứng trước thế phân cực mới trên thế giới, quả thật sức mạnh ngày hôm nay không c̣n căn cứ theo khả năng quân sự nữa, mà khả năng kinh tế mới là thước đo quyền lực ṭan cầu. Thí dụ như TC với khả năng kinh tế vừa vượt qua Nhựt Bổn chiếm vị trí thứ hai sau Hoa Kỳ.

 

2.  Luật biến cải, cũng được GS giải thích là khả năng thích nghi theo ḥan cảnh và điều kiện trong t́nh trạng xă hội lúc bấy giờ. Trước t́nh thế mới ngày hôm nay, cần phải vận dụng trí óc để thẩm định t́nh h́nh, để biến cải mọi hợp tác quốc gia, th́ phải dựa theo quan điểm đồng thuận và đồng lợi cho đôi bên cùng có lợi (win-win situation) mà vẫn giữ được tính chất độc lập dân tộc.

 

3.  Luật hợp quần và giáo dục. Đây là một yếu tố nhập môn rất sơ đẳng, đă được giảng dạy từ những ngày đầu tiên của trẻ con miền Nam, trong chương tŕnh giáo dục tiểu học, qua những câu chuyện ngụ ngôn trong sách quốc văn giáo khoa thư. Nhưng để thực hiện và áp dụng luật trên không phải dễ. Nh́n lại chính chúng ta, hiện tại bao nhiêu hệ phái của Đại Việt, đă thực sự làm suy yếu tiềm lực lớn lao của một Đảng, đă có quá tŕnh tranh đấu lâu dài, và một thời đă được sự ngưỡng mộ và ủng hộ của đại khối dân tộc Việt Nam."

 

 

Giáo Sư Nguyễn Ngọc Huy cho ấn hành tập thơ Hồn Việt, người thầy tôi sáng tác những bài thơ gởi gấm tâm sự ḷng về vợ con, như trong thơ văn được xem như là thơ về t́nh yêu gia đ́nh, hiền nội của thầy có nhủ danh là Dương Thị Thu, biệt hiệu Ngọc Điệp, đă qua đời vào năm 1974 trong một tai nạn tại băi biển Vũng Tàu. Khi Cô Huy qua đời, mặc dù lúc đó Thầy c̣n ở tuổi trung niên đầy danh vọng và tài hoa, nhưng Thầy vẫn ở vậy nuôi con tôn thờ h́nh ảnh của người vợ hiền cho đến chết. Sự thủy chung nhỏ đến sự thủy chung lớn, giữa t́nh yêu đôi lứa và t́nh yêu quê hương, thầy đă chu toàn ư nguyện của ḿnh.

 

"Ví phỏng đường đời có mấy ai

Hiền thê giả biệt bởi chẳng may

Trung niên khép kín v́ đạo nghĩa

Thử hỏi trần gian có mấy tay?"

(VHLA, Nén hương ḷng kính thầy)

 

Ngạn ngữ tây phương vẫn đề cao bóng h́nh người đàn bà hỗ trợ cho sự thành công của người đàn ông, với Thầy Huy ắt phải là sự cô đơn trong những năm tháng dài sống bất định, bề bộn chính sự rầy đó mai đây. Trong bài thơ “Nhớ Thu”:

 

“Đành phải từ đây chỉ một ḿnh,

Trên đường nhiệm vụ rộng mênh mông,

Một ḿnh nếm hết mùi cay đắng,

Trải hết vui buồn với nhục vinh”

 

Trên bước đường tranh đấu bôn ba nơi hải ngoại, Thầy đa đoan công việc và không có nhiều th́ giờ dành cho người con, bài thơ gởi con dường như chất chứa sự dầy xéo tâm tư như sau:

 

“Đức bạc tài sơ trí thấp hèn,

Nhưng đường tranh-đấu phải bon chen,

V́ Ba không thể nh́n dân tộc,

Khổ sở điêu linh dưới bạo quyền.

Việc nước đa đoan bỏ việc nhà,

Trong khi lưu lạc cơi trời xa,

Để Con đau khổ trong cô độc,

Cha đă không tṛn nhiệm vụ Cha”

 

Nhưng rồi người con trai ấy của Thầy đă măn phần ở Hoa-Kỳ, cùng khi ấy Thầy đă mắc chứng bệnh ung thư ngặt nghèo. Cuộc đời bề bộn quốc sự khiến Thầy không được tĩnh  dưỡng đúng mức, trong những giây phút thầm kín, Thầy cho thấy qua thơ, đêm đêm cầu nguyện cho vợ, cho con:

 

"Và cứ đêm đêm lại nguyện cầu,

Hồn em siêu thoát cơi tiên châu,

Đợi Anh đến lúc tṛn công quả,

T́m đón Anh về tái hội nhau"

 

Và nhắn với người con trai cô đơn đă vắn số:

 

"Ba lại ngày đêm măi khấn nguyền,

Cho Con cùng Má ở non tiên,

Hoàn toàn siêu thoát và thanh thản,

Ngày tháng tiêu dao hết năo phiền.

Rồi khi Ba dứt nợ trần hoàn,

Với Má, Con về lại thế gian,

Để đón Ba đi miền cực lạc,

Cùng nhau đoàn tụ hưởng thanh nhàn"

 

Lo cho gia đ́nh, lo cho quê hương, những ư nghĩ hẳn làm cho Thầy Huy mỏi mệt. Điều tôi lưu ư trong tâm thức của thầy là lo lắng về vấn nạn chia rẻ, kỳ thị tôn giáo, địa phương, chủng tộc... khiến cho tập thể chúng ta khó chống chọi với sự quỷ quyệt của CSVN, kẻ thù nguy hiểm măi u mê quyền lực khiến đất nước càng ngày càng tụt hậu, suy đồi. Bài thơ "Việt Nam Thống Nhất" trong thi tập Hồn Việt biểu lộ niềm ưu tư của Thầy. Giống ṇi Việt Nam phải đoàn kết với nhau trong công cuộc đấu tranh cam go, diệt giặc trong, chống giặc ngoài:

 

“Mặc những âm mưu rẽ giống ṇi,

Mà người cố dựng măi không nguôi,

Người dân nước Việt luôn kiên quyết,

Nắm chặt tay nhau chẳng để rời!

Cùng một non sông một giống ḍng,

Sao đành chia rẽ Bắc, Nam, Trung,

Muốn dân tộc Việt sinh tồn được,

Phải để ḥa chung máu Lạc Hồng”

 

Giáo Sư Nguyễn Ngọc Huy, hay Thi Sĩ Đằng Phương nói với tuổi trẻ qua bài thơ Thanh Niên Việt Nam:

 

"Trong lịch sử bốn ngh́n năm chiến đấu

Bốn nh́n năm lấy máu đắp giang sơn,

Bốn ngh́n năm hoạt động để sinh tồn

Ṇi giống Việt vẫn luôn luôn khẳng khái:

Không khuất phục kẻ thù khi thất bại,

Không kiêu căng khinh địch lúc thành công,

Trước khó khăn nguy hiểm chẳng sờn ḷng,

Trong sung sướng chẳng cho tàn lữa dũng.

Trải bao luợt đương đầu cùng băo sóng,

Sau mấy lần hưng thịnh tiếp suy vong,

Sống luôn luôn mạnh mẽ, giống Tiên Rồng

Đă nổi tiếng kiêu hùng trên đất Á.

Người dân Việt với tinh thần sắt đá

Không bao giờ quên tổ quốc thiêng liêng,

Lớp này suy, lớp khác tiến ngay lên

Giữ hàng ngũ đấu tranh luôn chặt chẽ.

Trong trận đánh muôn đời không lúc nghỉ

Của giống ṇi Hồng Lạc, hạng thanh niên..."

 

Những người trẻ, thanh niên Việt Nam hăy đứng lên đáp lời sông núi, bao thế hệ đă âm thầm luôn luôn cố gắng, đem máu xương tô điểm non sông, và nâng cao danh dự giống Tiên Rồng, hăy kiêu hănh những trang sử Lạc Hồng:

 

"Từ trước đă âm thầm luôn cố gắng

Đem máu xương tô điểm cảnh non sông

Và nâng cao danh dự giống Tiên Rồng.

Thanh niên Việt từ ngh́n xưa dũng mănh

Đă xây đắp cho nước nhà cường thạnh

Đỡ giang sơn trong những lúc khuynh nguỵ

Sử Lạc Hồng từ trước đă từng ghi:

Thanh niên Việt là trụ đồng nước Việt."

 

Đằng Phương Nguyễn Ngọc Huy giữ t́nh nghĩa thâm sâu với mọi cộng sự viên, ông được mến mộ và kính nể sau bao năm rời cơi dương thế, người người vẫn luyến tiếc, nhắc nhở ông từ tài danh đến đức độ, ông là người của quần chúng. Bút mực vẫn dành cho ông những lời trang trọng về con người của tâm đạo, của gương hy sinh cho nước nhà, của những trí tuệ uyên thâm và của những tư tưởng v́ đại nghĩa, những suy tư v́ tiền đồ của dân tộc:

 

“Suốt mấy ngh́n năm giống Lạc Hồng

Đă cùng hợp sức đắp non sông,

Đă cùng chung sống trong thân ái

Và phải chung mưa nắng băo bùng”

 

Hiểm họa Đại Hán từ ngàn năm vẫn đe dọa chúng ta, chống giặc ngoại xâm phương bắc được nhắc nhở trong thơ:

 

“Dưới ách Trung Hoa mấy bạo tàn,

Tinh thần cố kết vẫn không tan,

Toàn dân hợp lực lo tranh đấu,

Cho đến khi ca khúc khải hoàn

 

Những ḍng cuối nói về người thầy của tôi, Giáo Sư Nguyễn Ngọc Huy đă suốt đời tận tụy phụng sự quốc gia, lo lắng cho sự tồn vong hay sinh tồn của dân tộc. Những ngày cuối đời Thầy vẫn chưa gác kiếm nghỉ ngơi, dù rằng cơn bệnh ung thư hoành hành đau đớn, Thầy Huy mang tâm niệm kết hợp tập thể tranh đấu cho quê hương:

 

"Lúc bước chân vào nẻo đấu tranh,

Trên đầu mái tóc hăy c̣n xanh,

Nửa đời nếm đủ mùi cay đắng,

Giấc mộng ngày xưa vẫn chửa thành"

 

Cho đến lúc sức yếu hơi tàn, niềm tin trong ông vẫn lạc quan cho một ngày mai Việt Nam tươi sáng, một ngày mai ca khúc khải hoàn quang phục quê hương:

 

"Ta hăy cười lên đón ánh dương,

Ngày mai sẽ chói rạng quê hương,

Ḷng ta đă thoáng nghe văng vẳng,

Tiếng khải hoàn ca đậy phố phường"

 

 

Lời kết:

Những nhà cách mạng, những chí sĩ chọn nghiệp tranh đấu cho quê hương, v́ giang sơn, v́ tổ quốc, như chí sĩ Phan Bội Châu sáng lập Duy Tân Hội, và phát động Phong Trào Duy Tân chống thực dân Pháp, khi bị bắt bỏ tù, Người làm thơ chữ Nôm "Vào ngục Quảng Châu", vẫn ngạo nghễ đầy nét dí dỏm:

 

"Vẫn là hào kiệt vẫn phong lưu,

Chạy mỏi chân th́ hăy ở tù.

Đă khách không nhà trong bốn biển,

Lại người có tội giữa năm châu

Bủa tay ôm chặt bồ kinh tế,

Mở miệng cười tan cuộc oán thù.

Thân nọ vẫn c̣n, c̣n sự nghiệp,

Bao nhiêu nguy hiểm sợ ǵ đâu."

 

Và như Đảng Trưởng Nguyễn Thái Học của Việt Nam Quốc Dân Đảng lănh đạo cuộc Khởi nghĩa Yên Bái năm 1930. Cuộc khởi nghĩa bất thành, nhưng người hùng nước Nam cho mọi thời đại, dơng dạc kết luận những hành vi của ḿnh không hối tiếc: "Không thành công cũng thành nhân".

 

Đôi ḍng kết luận này như nén hương ḷng kính gởi Thầy Nguyễn Ngọc Huy. Xin cám ơn Thầy, biểu tượng cho một tấm gương sáng ngời v́ đại nghĩa và một tinh thần sĩ khí xả thân v́ đại cuộc. Ngày 28 tháng 7 năm 1990 Thầy đă ra đi tại Paris, Pháp Quốc,  Tổng Thống Hoa Kỳ George H.W. Bush đă gởi thơ chia buồn kể về Thầy: "...để lại phía sau một cuộc đời phục vụ tận tụy cho dân tộc Việt Nam... xứng đáng làm gương cho các thế hệ mai sau".

 

Thật vậy, Thầy là một tấm gương cho các thế hệ mai sau.

 

Trần Việt Hải

 

From: Paul Van

Subject: Re: Nho Thay Nguyen Ngoc Huy

To: "VietHai Tran" <viethai712@yahoo.com>

Cc: Dr MaiThanh Truyet , Ly Van Phuoc, Dr Phan Van Song

Date: Saturday, August 13, 2011, 12:15 PM

 

 

Cám ơn Bạn Việt Hải chuyển đọc bài viết về Gs Nguyễn Ngọc Huy . Đọc bài của hai Bạn Việt Hải và Mai Thanh Truyết làm tôi xúc động bồi hồi nhớ đến anh Ba Huy, một đàn anh tài đức vẹn toàn. Kỹ niệm sau cùng gặp Gs Nguyễn Ngọc Huy trong một tiệc cưới con trai một người bạn tổ chức ở Albany, NY vào năm 1990. Anh Dương Công Liêm, nguyên Đại tá Công Binh và tôi lái xe từ Connecticut đến Albany. Ngồi đối diện anh Ba Huy quanh chiếc bàn nhỏ, tôi lắng nghe từng lời căn dặn, tâm sự của anh Ba. Lúc đó anh Ba chỉ nhấp từng muổng nước cam và hoàn toàn không ăn được ǵ trong suốt hơn 3 giờ anh em trang trải tâm sự với nhau. Cháu Thể Tần thỉnh thoảng chạy đến thăm chừng ái ngại "Ba có mệt không Ba?". Anh Ba cho biết, hơn 1 tuần nữa sẽ qua Pháp họp với anh em. Sau buổi hội ngộ với anh Ba Huy, tôi chuyễn về VN những lời căn dặn của anh Ba đến anh Nguyễn Văn Hữu, một đồng chí kỳ cựu lâu năm với anh Ba, đồng thời cũng là bạn đồng khóa 5 VBQG với anh Phan Văn Sương, thân phụ của Bạn Phan Văn Song.

 

Ngày thư năm 4 tháng 8, 2011, trong lúc dùng cơm trưa với Đại sứ Bùi Diễm và Bs Nguyễn Lưu Viên tại nhà Bs Viên; trong câu chuyện trao đổi có nhắc đến kỹ niệm Gs Huy tham dự phái đoàn VNCH tại Hội Đàm París, ngụ tại nhà Bs Viên, Trưởng Phái Đoàn. Cách nay, khoảng 5 năm, gặp lại cháu Thể Tần trong buổi Lễ Giổ Gs Nguyễn Ngọc Huy tổ chức tại Mason District, Annandale VA; cháu rơi lệ nói với chúng tôi: hôm nay con gặp lại Bác (Bùi Diễm) và Chú(PV) làm con nhớ Ba của con quá...

 

Xin cúi đầu nguyện cầu và thành kính tưởng nhớ đến anh Ba Huy, một người Anh, người Thày, người Lănh Đạo xứng đáng. 

 

PV

 

 

[Attachment(s) from VietHai Tran included below]

 

Anh VTrD,

 

GS Nguyễn Ngọc Huy có nhiều môn sinh, như anh, anh Dương Viết Điền, VH, và nhiều nhiều anh chị em khắp nơi. Có những sự ra đi đầy thương tiếc như GS Nguyễn Ngọc Huy, GS Vương Văn Bắc, tướng Ngô Quang Trưởng,... Song song, cũng như có những vị ra đi mà dư luận không mấy thuận lợi cho lắm. Xét ra cho cùng GS Huy, GS Bắc, Tướng Trưởng,... là niềm tự hào, lưu luyến của thế hệ chúng ta khi nghĩ về 4 chữ Việt Nam Cộng Ḥa, ng̣i bút ACE chúng ta vinh danh, dành sự đầy trang trọng khi viết về họ.

Cám ơn anh.

 

VHLA

 

 

On Tue, 8/16/11, Vuong Trung Duong <vtrduong@yahoo.com> wrote:

From: Vuong Trung Duong <vtrduong@yahoo.com>

Subject: Nhatbao SGN thu Tu

To: "Viet Hai" <viethai712@yahoo.com>

Date: Tuesday, August 16, 2011, 11:06 AM

 

Hi bạn hiền Việt Hải,

Bài viết về GS Nguyễn Ngọc Huy rất chân t́nh và cảm động. GS NNH cũng là thầy dạy Chính Trị Học khóa I Nguyễn Trăi của tôi ở Trường Đại Học Chiến Tranh Chính Trị.

Chúc bạn hiền yên vui.

Thân

 

VTrD

 

P.S.: Gởi bạn hai trang báo Sài G̣n Nhỏ ngày mai.