Murakami Haruki
Từ Điển Bách Khoa
Columbia 2001, ghi rằng Murakami Haruki "là một
trong những tiểu-thuyết-gia-thế-kỷ-20 quan
trọng nhất của Nhật Bản".Đề cập đến
thời đại lắm băo tố hiện nay, Matsuda Tetsuo
của Nhật báo Yomiuri có số in lớn nhất ở
Nhật, viết:" Trong bất cứ trận băo
lớn nào cũng có những nhà văn giương cao
ngọn đèn soi cho quần chúng.Murakami Haruki
đang và sẽ lănh vai tṛ đó". Báo The Guardian viết:"không có
nhiều tác giả cùng thời mà tác phẩm lôi cuốn
được giới độc giả trẻ trực
tiếp đến như thế, không chỉ trong
nước ông mà c̣n trên khắp thế giới".
Murakami Haruki sinh năm 1949 ở
cố đô
Ông chỉ bắt
đầu viết từ 1978. Khi đang xem
một trận bóng chày, ư nghĩ viết văn chợt
đến với ông, như một tiếng gọi siêu
h́nh, ông cho đó là sự kiện hạnh phúc nhất
của đời ông. Tác phẩm đầu tay
của ông, "Lắng
Nghe Gió Hát" (KazeNo UtaO Kike, Hear the Wind Sing) xuất bản năm 1979,
kể lại thời sinh viên tranh đấu phản kháng
mà ông đă tham gia với một ít hoài nghi, được
giải thưởng "Tác
giả Mới - Gunzô" ngay
năm đó.
Tiếp tục thành công với
2 tác phẩm sau đó và một số các truyện ngắn,
ông bán quán Jazz, và trở thành một tác giả toàn thời. Ông cũng bắt đầu
việc dịch Raymond Carver, Truman Capote, F. Scott Fitzerald, …
Phong cách Murakami Haruki định h́nh từ tác
phẩm thứ 3 laø "Cuộc Phiêu Lưu Theo Con
Cừu" (HitsujiO Meguru Bôken, A Wild Sheep Chase) xuất bản năm
1982, giải "Tác
giả Mới - Noma" trong
năm, pha trộn những chi tiết
trinh thám đen với những ảo giác và bí mật siêu
h́nh. Nhân vật của ông chủ trương
những giá trị quan khác lạ với truyền thống
xă hội Nhật, và ham mê âm nhạc, phim ảnh Âu Mỹ.
Đặc điểm đó hấp dẫn tâm t́nh giới
trẻ Nhật Bản đang muốn cởi bỏ
những trói buộc của văn hoá truyền thống.
Dị ứng với lối sống đua
đ̣i vật chất trong một nền kinh tế hănh
tiến, vợ chồng ông rời Nhật sang sống
ở Ư năm 1986. Ở Rome, ông viết "Rừng Na Uy"
(NoruueiNo Mori, Norwegian Wood), tác
phẩm đă đưa ông lên địa vị "siêu
sao" trong văn học Nhật Bản. Những kư
ức hoài niệm trong tuổi đang lớn chen lẫn
với ư thức về tính cách nhất thời của
đời sống, ư thức về sự không thể tránh
được của những mất mát, là đề tài
của tác phẩm, đặt trong bối cảnh thời
sinh viên tranh đấu phản kháng cùng lúc với b́nh minh
của phong trào tự do tính dục những năm cuối
thập niên 60 và đầu 70. "Rừng
Na Uy" trở thành
một phong trào, được tận dụng trong
giới quảng cáo, từ bánh kẹo cho đến
vật dụng trong nhà; các nhà sản xuất xin làm phim; …
Ngay trong năm đầu tiên, "Rừng
Na Uy" đă bán
được 1 triệu bộ.
Sống ở Âu Châu, ông vẫn
băn khoăn về mục đích
của đời sống của ông, một tác giả
Nhật. Hai vợ chồng lại quay về Nhật
năm 1990, cao điểm của thời kinh tế
bọt. Năm
sau, ông lại khoác áo ra đi, lần nầy sang Mỹ làm
giáo sư khách của Đại học Princeton 2 năm, rồi 2 năm
tiếp theo làm Tác giả Thường
trú (Writer-In-Residence) ở Đại học Tuft,
Tháng Giêng năm 1995, xảy ra thảm kịch
động đất ở Kobe; 2 tháng sau, lại xảy
ra vụ tín đồ Chân Lư Giáo Aum thả hơi
độc sarin trong tàu điện ngầm ở Tokyo. Hai
thảm kịch nầy đánh dấu sự chuyển
biến từ căn bản của xă hội Nhật: Ư
thức an định do an toàn xă hội từ lâu nay
vẫn là một biểu hiện tính ưu việt của
truyền thống văn hóa Nhật Bản,
được tăng cảm nhờ t́nh trạng không
ngừng phát triển của kinh tế bọt, bỗng
một sớm một chiều đă bị thách thức gay
gắt đến độ sụp đổ theo những
toà nhà Kobe trong cơn động đất. Không
lâu sau đó, kinh tế bọt Nhật Bản cũng
vỡ tan.
Hai cơn sốc liên tiếp nầy đă
đưa ông trở về Nhật. Tuyển tập
truyện ngắn"Sau Cơn Động
Đất" (JishinNo AtoDe, After The Quake) có những nhân vật
chính, do ảnh hưởng gián tiếp xa xôi của
trận động đất Kobe, đă cảm nhận
sâu sắc sự trống rỗng của chính ḿnh, mất
niềm tin vào sự an định của đời sống
gia đ́nh. Tập "Đường
Ngầm" (Andaguraundo, Underground) ghi những cuộc phỏng
vấn trực tiếp tín đồ Chân Lư Giáo Aum cùng
những nạn nhân, cho thấy tâm t́nh phản kháng
đối với những giá trị quan tôn thờ vật
chất, cố gắng t́m kiếm ư nghĩa cuộc
đời từ những giải thuyết siêu h́nh, có khi
cực đoan đến nỗi trở thành tội ác.
Những nhân vật chính của Murakami Haruki không
những chỉ hấp dẫn giới trẻ Nhật
Bản, mà c̣n cộng hưởng với tâm t́nh giới
trẻ Âu Mỹ v́ những nét quen thuộc trong lối
sống, thị hiếu mới; và chia sẻ với
giới trẻ các nước chậm tiến hơn, ḷng
ngưỡng mộ hay ước vọng về lối
sống Âu Mỹ. Rất nhiều tác phẩm của ông
đă được dịch và hâm mộ ở Mỹ, Anh,
Nga, Đức, Hàn, Pháp, Ư, Spain, Hy Lạp, Hà Lan, Phần Lan,
Đan Mạch, Áo, Canada, Do Thái, Trung Quốc, Hồng Kông,
Đài Loan. Tiếng tăm của ông ở nước ngoài
cộng với địa vị "siêu sao" trong
nước Nhật, đă làm tăng khoảng cách
đối với ḍng văn học truyền thống
Nhật Bản vốn vẫn nghi ngờ ư đồ có
vẻ tạo loạn của ông. Giải Nobel Văn
học 1994 Oe Kenzaburo công kích Murakami Haruki và chê ông là "hôi
mùi bơ" (batakusai) v́ hay dẫn
dụ những chi tiết văn hóa Âu Mỹ.
Murakami Haruki không thích sự
săn đón của giới truyền thông, ông ít khi
chịu phỏng vấn. Giống như giới trẻ hiện
đại, thành phần độc giả chủ yếu
của ông, Murakami Haruki thoải mái với quần ḅ, áo
thun, giày thể thao, ham thích các hoạt động tăng
tiến thể lực, tham gia
nhiệt t́nh các kỳ chạy việt dă mỗi năm trong
suốt 20 năm qua. Ngày nay, ở tuổi 54,
ông vẫn c̣n chạy 10 Km mỗi ngày và chuyên niệm vào
việc viết sách. Tác phẩm trường thiên
mới nhất của ông, "Kafka
Bên Bờ Biển" (Umibe no Kafuka, Kafka On The Shore) do nhà Shinchô xuất bản
tháng 9 năm 2002 trong ṿng 2 tháng đầu đă bán hết
460 ngàn cuốn.
P
Phạm Vũ Thịnh
Tham khảo:
[1] Richard Williams: "
[2] Mick
Brown: "Tales of the unexpected", The Daily Telegraph, filed
15.08.2003.