Bóng Ma Lexington

Murakami Haruki

Phạm Vũ Thịnh  dịch

 

 

trang1

 

 

 

Đây là chuyện đă thật sự xảy ra, vài năm trước đây. Có chút sự t́nh nên xin đổi tên nhân vật mà thôi, ngoài ra, tất cả đều là chuyện thật.

Tôi đă có thời sống hai năm ở Cambridge thuộc bang Massachusetts. Lúc ấy, đă quen biết một kiến trúc sư. Một người đàn ông vừa qua tuổi 50, đẹp trai, tóc đă trắng gần một nửa. Không cao lắm. Thích bơi lội, đến hồ bơi mỗi ngày, thân thể săn chắc. Thỉnh thoảng c̣n chơi quần vợt. Xin tạm gọi tên là Casey. Độc thân, sống ở ngoại vi thành phố Boston, trong một toà nhà cổ ở vùng Lexington, chung với một tay chỉnh dây đàn dương cầm, có sắc mặt không được hồng hào mấy, tên là Jeremy, có lẽ khoảng giữa tuổi 30, cao, gầy như thân cây liễu, tóc đă thưa dần rồi. Jeremy không chỉ chỉnh dây đàn, mà c̣n đàn dương cầm rất điêu luyện nữa.

Thời ấy, tôi đă có vài truyện ngắn dịch ra tiếng Anh đăng trên tạp chí ở Mỹ. Casey đọc các truyện dịch ấy mới viết thư cho tôi qua ban biên tập tạp chí. "Rất hứng thú về các tác phẩm và thân thế của ông. Nếu có thể, rất mong được gặp và nói chuyện với ông". Thường th́ tôi không gặp người ta theo cách như thế, kinh nghiệm cho thấy là chẳng vui thích ǵ, nhưng tôi lại nghĩ thử gặp ông Casey này cũng được. Một phần cũng v́ thư ông ta rất trí thức, và đầy cảm giác hóm hỉnh. Phần khác là sự dễ dăi v́ tôi đang sống ở nước ngoài. Chỗ tôi ở t́nh cờ cũng gần chỗ của ông ta. Nhưng thật ra những sự t́nh như thế chỉ là những lư do bên lề mà thôi. Nói ǵ đi nữa, lư do quan trọng nhất để tôi quan tâm đến cá nhân của nhân vật tên là Casey này, chính là bộ sưu tập đĩa nhạc Jazz cũ, có vẻ phong phú của ông ta.

"Có lẽ t́m khắp nước Mỹ này cũng không đâu ra một bộ sưu tập nào phong phú được như thế này. Nghe nói ông thích nhạc Jazz nên có thể ông quan tâm đến bộ sưu tập của tôi". Ông ta viết như thế. Ông ta không sai. Quả thật tôi rất quan tâm. Đọc xong bức thư ấy, tôi đâm ra nao nức muốn được thấy bộ sưu tập của ông ta, đến không sao chịu nổi. Hễ dính đến chuyện sưu tập đĩa nhạc Jazz cũ là tôi mất sức đề-kháng tinh thần ngay, cứ như là ngựa bị mê hoặc bởi một thứ mùi của loài cây đặc biệt ǵ đấy.

Nhà của Casey ở vùng Lexington. Cách nhà tôi ở Cambridge chừng 30 phút xe hơi. Tôi điện thoại hỏi đường th́ ông ta gửi Fax có bản đồ chỉ dẫn đường đi cặn kẽ cho tôi. Một buổi chiều tháng Tư, tôi lên xe Volkswagen màu lục, một ḿnh lái đến nhà ông. Và nhận ra nhà ấy ngay.

Một căn nhà cổ to lớn, ba tầng. Có lẽ ít nhất cũng đă 100 tuổi rồi. Hùng cứ một góc truyền-thuyết ngay trong khu nhà cao cấp ở ngoại vi thành phố Boston, san sát những ngôi nhà tráng lệ đoan trang này, đây là một toà nhà cổ hùng-đại đặc biệt lôi cuốn mắt người ta. Xứng đáng đăng h́nh lên bưu thiếp nữa.

Vườn rộng cứ như là một khu rừng lớn, thấy có bốn con chim giẻ đang chuyền từ cành này sang cành kia, vừa kêu lên những tiếng sắc nhọn chói tai.

Trên đường vào nhà có chiếc xe BMW mới. Tôi vừa đậu xe ngay sau chiếc BMW th́ con chó giống mastiff to lớn đang nằm dài trên tấm thảm chùi giày trước cửa nhà, chậm răi nhỏm dậy, uể oải sủa 2, 3 tiếng như làm cho xong nhiệm vụ. Ra vẻ "chẳng phải muốn sủa ǵ đâu, chỉ là làm theo lệ đă đặt ra thế thôi".

Casey bước ra bắt tay tôi. Cái bắt tay chặt chẽ như muốn xác định điều ǵ. Vừa bắt tay, bàn tay kia vừa vỗ tưng tưng lên vai tôi. Thói quen của Casey đấy. -"A, thế mà cũng chịu khó đến chơi đấy. Gặp được anh, tôi mừng lắm". Ông nói. Casey mặc áo sơ mi trắng kiểu Ư rất thời trang, nút áo khép đến tận trên cùng, quần vải mềm, áo khoác ca-sơ-mia màu trà nhạt. Mắt kính nhỏ kiểu Giorgio Armani. Trông rất là trang nhă.

Casey đưa tôi vào trong nhà, mời ngồi trên ghế dài pḥng tiếp khách; và mời tôi tách cà-phê mới pha thật ngon.

Casey là người có vẻ phóng khoáng, nề nếp và văn hóa cao. Thời trẻ đă du hành khắp nơi trên thế giới nên nói chuyện rất hoạt bác. Tôi dần dần chơi thân với ông, tháng nào cũng đến nhà thăm ông. Và được hưởng ân huệ của bộ sưu tập đĩa nhạc quư giá ấy nữa. Đến chơi nhà ấy th́ tha hồ nghe thoả thích. Giàn âm hưởng của ông tuy so với bộ sưu tập ấy th́ không xứng, nhưng cũng là loại máy khuếch âm to lớn dùng bóng đèn chân không cổ điển nên tiếng nghe ấm và gợi nhớ thời xưa cũ.

Casey dùng pḥng đọc sách trong nhà làm pḥng làm việc, đặt một bộ máy tính lớn dùng cho việc thiết kế kiến trúc. Nhưng với tôi, ông hầu như chẳng nói ǵ về việc làm cả. -"Chẳng phải là công việc ǵ đặc biệt." Ông vừa cười vừa nói như phân bua với tôi. Tôi không hiểu ông làm việc thiết kế kiến trúc ǵ. Mà cũng chưa hề thấy ông bận bịu công việc. Casey, theo như tôi biết, lúc nào cũng ngồi ở ghế dài pḥng khách, phong nhă cầm ly rượu vang, đọc sách, hay lắng nghe Jeremy đàn dương cầm; hoặc là ngồi ở ghế trong vườn, đùa với con chó. Chỉ là cảm nhận riêng của tôi thôi, nhưng Casey không có vẻ ǵ là cần mẫn trong công việc cả. Thân phụ của Casey đă là một bác sĩ phân tâm nổi tiếng toàn quốc, đă viết 5, 6 cuốn sách chuyên khoa, đến nay đă thành những tác phẩm cổ điển trong ngành. Lại là người mê say nhạc Jazz cuồng nhiệt, bạn thân của Bob Weinstock, nhà sản xuất và cũng là người sáng lập công ty đĩa nhạc Prestige Records. Cũng v́ thế mà bộ sưu tập đĩa nhạc Jazz của ông, từ thập niên 1940 đến thập niên 1960, đúng như trong thư của Casey, quả là hoàn bích đến làm người ta le lưỡi thán phục. Số lượng đĩa nhạc đă đáng nể rồi, mà phẩm chất lại tuyệt vời đến không c̣n chỗ chê. Phần lớn các đĩa nhạc là bản nguyên thuỷ trong kỳ phát hành đầu tiên, được chăm sóc kỹ để giữ t́nh trạng tốt. Không một vết trầy trên mặt đĩa, không một vết xước trên bao đĩa. Toàn vẹn đến gần như là phép lạ. Cách ǵn giữ cẩn trọng, từng đĩa một được nâng niu như tắm cho trẻ sơ sinh.

Casey không có anh chị em nào, thuở nhỏ đă mồ côi mẹ. Thân phụ đă không tái hôn. Thế nên năm Casey 15 tuổi, bố mất v́ ung thư tuỵ tạng, th́ toàn bộ tài sản, nhà cửa, cùng với bộ sưu tập đĩa nhạc quư giá đă trở thành của riêng ông. Casey thương kính bố hơn ai hết nên đă giữ kỹ nguyên vẹn bộ đĩa nhạc, không suy suyển một đĩa nào. Tuy cũng thích nghe đĩa nhạc Jazz, nhưng không đến mức cuồng nhiệt như bố. Casey ưa thích nhạc cổ điển hơn, hễ có buổi hoà nhạc nào của giàn nhạc giao hưởng Boston với nhạc trưởng Ozawa là thế nào cũng rủ Jeremy đi nghe.

Sau khoảng nửa năm chơi thân với nhau như thế, tôi được Casey nhờ trông nhà hộ. Chuyện bất thường đối với Casey là ông v́ công việc mà phải đi London khoảng một tuần. Thường th́ khi nào ông đi xa vẫn có Jeremy trông nhà nhưng lần này không được thế. Đúng lúc mẹ của Jeremy, ở West Virginia, bị bệnh nặng, Jeremy đă về thăm trước đấy một vài ngày rồi. Thế nên Casey đă điện thoại lại tôi.

-"Xin anh hiểu cho, tôi chỉ c̣n nghĩ ra được có anh để nhờ thôi. Mà nói là trông nhà hộ cho, chứ thật ra, chỉ cần ngày hai lần cho con chó Miles ăn hộ tôi là đủ rồi. Mà đĩa nhạc th́ nghe bao nhiêu cũng được. Rượu và thức ăn cũng đă chuẩn bị đầy đủ, cứ dùng tự nhiên, đừng làm khách ǵ cả là được".

Đề nghị kiểu ấy th́ nghe cũng được. Đúng vào lúc tôi có chút sự t́nh nên phải sống một ḿnh, mà bên cạnh căn pḥng trọ tôi thuê ở Cambridge, người ta đang tân trang lại nhà cửa, ngày nào cũng ồn ào không chịu nổi. Thế là tôi mang vài bộ quần áo, máy tính Macintosh Power Book và vài cuốn sách, đến nhà Casey khoảng sau trưa thứ Sáu. Nhằm lúc Casey vừa sắp xếp hành lư xong, định gọi taxi đến.

Tôi chúc ông đi London vui vẻ.

-"Vâng, hẳn nhiên thế". Casey tươi cười nói -"Anh ở nhà tha hồ nghe nhạc nhé. Nhà có đủ tiện nghi cho anh đấy."

Sau khi tiễn Casey đi xong, tôi vào bếp làm cà-phê uống. Rồi vào pḥng nghe nhạc bên cạnh pḥng khách, đặt máy tính, mở nghe vài đĩa nhạc thân phụ Casey đă để lại, và làm việc khoảng một giờ. Thử xem ḿnh có thể làm việc song suốt được ở đây trong ṿng một tuần hay không.

Bàn làm việc là loại bàn kiểu cổ bằng gỗ gụ bề thế, hai bên có ngăn kéo. Có vẻ xưa lắm. Mà đồ đạc trong pḥng này, ngoại trừ máy tính Macintosh tôi mang đến, tất cả đều có vẻ xưa cũ từ thời nào xa xưa đến không c̣n nhớ ra được, vẫn c̣n tiếp tục tồn tại ở nguyên vị trí ấy trong pḥng. Có vẻ sau khi bố mất, Casey đă đặc biệt giữ nguyên không dời đổi ǵ trong căn pḥng này, cứ như là từ-đường, hay pḥng ǵn giữ di vật thiêng liêng vậy. Ngay cả toàn thể ngôi nhà đă cho cảm giác không dời đổi theo thời gian, mà đặc biệt trong pḥng này, thời gian hầu như đă ngưng hẳn lại đâu từ trước rồi. Tuy vẫn được trông nom cẩn thận. Các giá sách không có chút bụi, mặt bàn chùi bóng láng, đẹp đẽ.

Con chó Miles đến nằm sóng sượt dưới chân tôi. Tôi xoa nhẹ đầu nó vài lần. Con chó rất ưa hơi người. Không chịu chuyện ở một ḿnh lâu được. Chỉ khi ngủ mới chịu nằm trên tấm mền dành sẵn bên cạnh nhà bếp, như đă được dạy, c̣n th́ thế nào cũng t́m đến bên người nào đó, tựa sát một phần thân ḿnh vào họ một cách dịu nhẹ không làm họ để ư.

Pḥng khách và pḥng nghe nhạc ngăn cách nhau bởi một bức vách cao không có cửa đóng. Trong pḥng khách có ḷ sưởi lớn xây bằng gạch, và ghế sofa dài bằng da 3 người ngồi rộng răi. Bốn chiếc ghế có tay dựa h́nh dạng khác nhau và ba chiếc bàn cà-phê cũng khác nhau về h́nh dạng. Giữa pḥng trải một tấm thảm Persia màu sắc trang nhă, trên trần treo một đèn chùm cổ điển có vẻ như hàm chứa một giai thoại ǵ đấy. Tôi đến ngồi vào ghế dài, xoay người nh́n quanh pḥng. Chiếc đồng hồ đặt trên khung ḷ sưởi ghi khắc thời gian bằng tiếng "tốc tốc" như tiếng móng tay gơ vào khung cửa sổ.

Sách về mỹ thuật và sách chuyên môn của các ngành, xếp hàng trên giá sách cao dựa vào tường. Vài bức tranh sơn dầu lớn nhỏ vẽ cảnh băi biển nào đó, treo cạnh nhau. Bức hoạ phong cảnh nào cũng cho ấn tượng tương tự nhau. Bức nào cũng chẳng có h́nh dáng người nào, chỉ có phong cảnh băi biển có vẻ đ́u hiu. Tưởng như kề tai lại gần có thể nghe được tiếng gió lạnh, tiếng sóng hoang dại. Chẳng có ǵ hoa lệ hào nhoáng, nhưng tất cả các thứ trong tranh đều toát ra hơi hướm quư tộc từ thời xa xưa, không cần che giấu nhưng vẫn giữ tiết-độ kiểu thổ-ngơi New England truyền thống. Bức tường rộng trong pḥng nghe nhạc được dùng làm dăy giá dựng đĩa nhạc cỡ LP xưa cũ sắp hàng tấp nập, theo thứ tự mẫu tự đầu tên của các nhà diễn tấu. Con số chính xác của đám đĩa nhạc này th́ chính Casey cũng không rơ. Ông bảo là đâu chừng 6 ngàn hay 7 ngàn đĩa ǵ đấy. Và c̣n một số đĩa nhạc tương tự như thế phải xếp vào thùng các-tông mà cất vào căn pḥng dưới nóc nhà nữa. -"Có ngày, sức nặng của đám đĩa nhạc này sẽ làm căn nhà lún tuốt vào ḷng đất không chừng."

Đặt đĩa nhạc Lee Connitz 10 inch cũ kỹ lên máy quay đĩa, ngồi vào bàn mà viết văn th́ cảm thấy thời gian trôi qua êm đềm dịu dàng quanh ḿnh. Khoan khoái như ḿnh được đặt nằm vào một khung h́nh khít khao vừa vặn với thân thể ḿnh. Cảm nhận được niềm thân mật đặc biệt dành cho ḿnh từ cách chế tạo mọi thứ cẩn thận trân trọng cần nhiều thời gian. Khắp pḥng, trong từng góc kín, trong từng chỗ lơm nhỏ trên tường, cho đến từng nếp gấp trên màn cửa, dư hưởng của âm nhạc đă thấm đượm vào, thân mật mà khoan khoái.

Đêm đó, tôi đă mở chai rượu vang đỏ Monte Pulciano mà Casey đă dành sẵn cho, rót vào ly pha-lê, uống vài ly, và ngồi vào ghế xa-lông, thư thả đọc cuốn tiểu thuyết mới xuất bản vừa mua được. Quả là xứng đáng được tay sành điệu như Casey lựa chọn, thứ rượu vang này ngon thật. Tôi lấy phó-mát Bree từ tủ lạnh ra, kẹp với bánh bích-quy mỏng, ăn hết một phần . Chung quanh im vắng. Ngoài tiếng đồng hồ "tốc tốc", chỉ thỉnh thoảng mới có tiếng xe chạy qua trước nhà. Mà đường trước nhà là loại đường cùng, không thông ra đâu cả nên xe vào cũng chỉ là xe hàng xóm, càng về đêm, càng im vắng không nghe tiếng động nào. Từ pḥng trọ của tôi ở Cambridge thuộc xóm đông sinh viên, lúc nào cũng ồn ào, dời đến đây, cảm thấy cứ như là ḿnh đang ở dưới đáy biển.

Khi đồng hồ chỉ quá 11 giờ đêm th́ như thường lệ, tôi thấy buồn ngủ, nên dẹp sách, cho ly không vào bồn rửa chén trong nhà bếp, rồi bảo con chó Miles đi ngủ. Con chó uể oải vâng lời, ra nằm cuộn người trên tấm mềm cũ, kêu ư ử vài tiếng nhỏ rồi chớp mắt ngái ngủ. Tôi tắt đèn, bước vào pḥng ngủ dành cho khách ở tầng trên, thay quần áo, chui vào gường, hầu như ngủ vùi được ngay.

Chợt mở mắt thức giấc, thấy ḿnh đang ở trong khoảng không. Chẳng hiểu là nơi chốn nào. Một hồi lâu, cứ như là rau cải úa héo, chẳng có cảm giác ǵ cả. Như rau cải bị bỏ quên lâu ngày trong góc tối của ngăn tủ trong bếp. Hồi lâu sau mới nhớ ra được rằng ḿnh đang trông nhà hộ Casey. Đúng rồi, ḿnh đang ở Lexington đây mà. Sờ soạng t́m được đồng hồ tay đă đặt cạnh gối, bấm nút cho có ánh sáng xanh mà đọc giờ. 1 giờ 15 phút.

Tôi rướn nhẹ thân người trên giường, với tay bật ngọn đèn nhỏ để đọc sách bên giường. Phải mất một lúc mới nhớ ra vị trí của nút bật đèn. Ánh sáng màu vàng toả ra từ cái chụp đèn thuỷ tinh chạm trổ h́nh hoa huệ. Tôi xoa mạnh hai ḷng bàn tay lên mặt, hít vào một hơi dài, rồi nh́n quanh căn pḥng vừa được chiếu sáng. Hết kiểm điểm bốn bức tường, lại nh́n tấm thảm, rồi nh́n lên trần cao. Nhặt nhạnh từng chút ư thức như đang nhặt lên từng hạt đậu vương văi trên nền nhà, để thân thể ḿnh quen dần với hiện thực. Cuối cùng mới để ư được đến điều ấy. Đến tiếng động. Tiếng lao xao nghe như tiếng sóng vỗ vào bờ. Tiếng động ấy đă lôi tôi ra khỏi giấc ngủ say.

Có người nào đang ở tầng dưới!

Tôi nín thở, bước thật êm về phía cửa pḥng. Nghe tiếng khô khan của tim ḿnh đập mạnh ngay bên tai. Rơ ràng là trong ngôi nhà này, ngoài tôi ra c̣n có người khác nữa. Mà không phải chỉ một hay hai người. Nghe cả tiếng ǵ như âm nhạc nữa. Tôi chẳng c̣n hiểu sao cả. Nách tôi đă có vài ḍng mồ hôi lạnh chảy xuống. Trong lúc tôi ngủ say, trong nhà này, đă có chuyện ǵ xảy ra?

Thoạt tiên, tôi chợt nghĩ hẳn là tṛ giàn cảnh trêu cợt quy mô ǵ đây. Casey giả vờ đi London, nhưng thực ra đă chỉ đi đâu gần đây rồi lẻn quay về sắp đặt tiệc vui ban đêm đây chăng? Thế nhưng nghĩ sao đi nữa, Casey cũng chẳng phải là mẫu người ưa dàn dựng tṛ đùa vô duyên như thế. Óc hài hước của ông ta phải tế nhị, thâm trầm hơn kia.

Hoặc là, tôi tựa người vào cánh cửa mà nghĩ tiếp, có thể là đám bạn của Casey mà tôi chưa được biết. Có lẽ họ biết chuyện Casey đang đi du lịch, lại không biết rằng tôi đến trông nhà họ, nên được dịp mà lẻn vào nhà phá chơi. Ư trước đúng hay ư sau đúng th́ ít nhất cũng chẳng phải là chuyện trộm đạo ǵ. Kẻ trộm lẻn vào nhà th́ đâu cố t́nh mà nghe nhạc ồn ào như thế.

Tôi bèn thay đồ ngủ ra, mặc quần áo thường, mang giày thể thao, tṛng áo len vào trên áo sơ mi. Thế nhưng, cũng phải pḥng hờ chuyện vạn nhất chứ. Có thứ ǵ thủ sẵn trong tay vẫn hơn. Tôi nh́n quanh pḥng, nhưng chẳng thấy được thứ ǵ thích ứng cả. Chẳng có chày baseball, cũng chẳng có que gạt lửa sưởi. Trong pḥng chỉ có tủ, giường, kệ sách nhỏ và khung tranh phong cảnh mà thôi.

Ra ngoài hành lang càng nghe tiếng rơ hơn. Tiếng nhạc xưa vui nhộn từ dưới cầu thang dâng lên như hơi nước. Nghe quen như một bản nhạc nổi tiếng nào đấy, nhưng không sao nhớ ra nhan đề là ǵ.

Nghe cả tiếng nói chuyện nữa. Tiếng nói của nhiều người hoà lẫn làm một nên nội dung là chuyện ǵ th́ không nghe ra được. Có lúc nghe cả tiếng cười, có vẻ dịu nhẹ, thanh tao. Vậy là tầng nhà dưới đang có tiệc tùng vui vẻ rồi. Như điểm xuyết thêm màu sắc, lại nghe có cả tiếng ngân thánh thót của các ly sâm-banh hay rượu vang ǵ đấy chạm nhau. Có lẽ có người đang nhảy nữa, nghe cả tiếng đế giầy da di động nhịp nhàng trên sàn nhà.

Tôi rón rén nhón gót đi không vang tiếng chân trên hành lang tối, ra đến chỗ ngoặt cầu thang. Rồi nhướng người qua tay dựa cầu thang, nḥm xuống dưới. Từ khung kính dài hẹp trên cửa chính lọt vào chút ánh sáng nhạt soi mờ khoảng tiền sảnh rộng lớn, trang nghiêm. Chẳng có bóng người nào cả. Cánh cửa mở ra hai bên ngăn tiền sảnh với pḥng khách đă được đóng kín lại. Cánh cửa này, lúc tôi đi ngủ, đă mở ra kia mà! Chắc chắn như thế. Quả là sau khi tôi lên tầng trên ngủ th́ có người nào đấy đóng cửa này lại rồi.

Tôi chợt bối rối không biết nên làm sao. Cứ thế mà trốn kín trong pḥng trên lầu cũng được. Từ bên trong, cứ khoá cửa pḥng rồi chui vào giường... B́nh tĩnh mà xét th́ đó là cách tốt nhất. Thế nhưng đứng ở cầu thang, nghe ngóng tiếng nhạc vui nhộn, tiếng cười nói vẳng ra từ sau cánh cửa ấy một hồi, cơn sốc ban đầu dần đần lắng đọng như ṿng sóng trên mặt hồ lan dần và trầm lắng. Từ không khí như thế, tôi đoán là họ chẳng phải là loại người xấu xa ǵ đâu.

Tôi hít thở một hơi thật dài rồi bước xuống cầu thang đến tiền sảnh. Đế giày cao su nhẹ nhàng in sát lên từng bậc thang bằng gỗ xưa cũ. Xuống hết cầu thang, tôi rẽ trái vào pḥng bếp. Bật đèn lên, mở ngăn kéo, cầm lên một con dao thái thịt khá nặng. Casey thích làm bếp, nên có một bộ dao đắt tiền chế tạo ở Đức. Và giữ ǵn kỹ lưỡng. Con dao bằng thép không rỉ được mài bóng loáng, cầm lên tay thật ngon lành, lưỡi dao sáng lên.

Thế nhưng, chợt tưởng tượng ḿnh nắm chặt con dao chặt thịt to tướng ấy mà bước vào pḥng tiệc huyên náo kia, sao mà có vẻ xuẩn ngốc quá! Tôi mở ṿi nước rót uống một cốc xong, đặt lại con dao vào ngăn kéo.

Thế con chó th́ ra sao rồi nhỉ?

Chợt để ư là chẳng thấy bóng dáng con chó Miles đâu cả. Không có nó trên chỗ ngủ là tấm mền thường ngày của nó. Con chó đă đi đâu rồi? Nếu có ai vào nhà trong đêm khuya khoắt thế này, đáng lư th́ phải nghe nó sủa vài tiếng chứ! Tôi khom người xuống, đặt tay lên chỗ hủng trên chiếc mềm dính đầy lông chó. Chẳng c̣n hơi ấm của nó. Có vẻ con chó đă rời chỗ ngủ đi đâu mất từ lâu rồi.

Tôi rời pḥng bếp, ra tiền sảnh, ngồi xuống băng ghế nhỏ. Vẫn c̣n nghe tiếng nhạc liên tục. Tiếng nói chuyện liên tục. Lúc ồn ào, lúc êm dịu, như những đợt sóng, không ngừng nghỉ. Chẳng biết có bao nhiêu người trong đó? Có vẻ ít nhất cũng đến 15 người. Có khi hơn 20 người không chừng. Hẳn là pḥng khách rộng răi ấy đă chật chội lắm rồi.

Tôi phân vân không biết có nên mở cửa vào trong ấy không. Làm thế có vẻ khó, mà kỳ dị nữa. Tôi được nhờ trông nhà hộ nên có trách nhiệm nào đấy, thế nhưng có được mời dự tiệc đâu.

Tôi định lắng tai nghe những tiếng nói rời rạc lọt qua khe cửa để xem họ nói chuyện ǵ. Nhưng chịu thua. Các tiếng nói ấy quyện lẩn vào nhau thành một khối, không làm sao nhận ra từng lời được. Biết là chuyện tṛ đấy, lời nói đấy, mà thấy như có cả bức tường dày dựng ngay trước mặt ḿnh. Không có khe hở nào cho ḿnh bước qua.

Tôi thọc tay vào túi quần, lấy ra một đồng tiền 25 xu, thờ thẩn lăn nó ṿng ṿng trong bàn tay. Đồng tiền màu bạc ấy gợi lại cho tôi cảm giác hiện thực rất rắn chắc.

Có thứ ǵ đấy, như là một cái chày mềm đập vào đầu tôi.

Họ là ma đấy mà!

Đang tụ họp trong pḥng khách nghe nhạc, chuyện tṛ với nhau ấy, không phải là người thực đâu!

Hai cánh tay tôi nổi da gà rờn rợn lạnh. Cảm giác như có thứ ǵ dao động mạnh trong đầu ḿnh. Cứ như là chung quanh lệch đi, khí áp chợt biến đổi, và tai ḿnh nghe lùng bùng nhè nhẹ. Định nuốt nước miếng nhưng cổ họng khô rang, không nuốt ǵ được. Tôi cho đồng tiền vào túi quần, đảo mắt nh́n quanh. Nghe tim ḿnh bắt đầu đập mạnh những tiếng cứng.

Lấy làm lạ sao ḿnh không để ư ngay từ trước. Chứ nghĩ xem, có ai mà lại mở tiệc vào giờ giấc quái gở như thế này đâu. Vả lại, từng này người mà đậu xe lại trước nhà rồi rầm rầm mở cửa vào nhà th́ dù ǵ đi nữa làm sao mà tôi khỏi thức dậy được chứ. Mà con chó chắc chắn là đă sủa vang lên rồi. Thế nghĩa là, bọn họ đă chẳng đến từ đâu cả.

Phải chi có con chó Miles ở đây. Tôi cần ṿng tay ôm cổ con chó to lớn ấy, ngửi mùi của nó, da ḿnh cảm nhận được hơi ấm của nó. Nhưng con chó ấy chẳng thấy đâu. Tôi ngồi trên băng ghế trong tiền sảnh, đờ người như bị ma ám. Sợ quá. Nhưng cảm thấy có ǵ đấy vượt lên trên cả nỗi sợ nữa. Có ǵ đấy sâu thẳm mà mênh mông đến kỳ dị.

Tôi thở ra hít vào thật sâu vài lần để b́nh tĩnh thay đổi không khí trong phổi. Thân thể dần dần lấy lại được cảm giác b́nh thường. Có cảm giác như trong tận cùng ư thức của ḿnh, có mấy tấm cạc vừa nhẹ nhàng lật mặt lại.

Tôi đứng lên, và giống như lúc bước xuống đây, rón rén bước không thành tiếng lên cầu thang, trở lại pḥng ḿnh, chui tọt vào giường. Vẫn c̣n nghe tiếng nhạc và tiếng nói chuyện liên tục không dứt. Chẳng làm sao ngủ được nên tôi đành chịu trận như thế cho đến khi trời sáng. Để đèn suốt như thế, tôi ngồi tựa vào đầu giường, nh́n lên trần pḥng, lắng nghe tiếng ồn từ đám tiệc có vẻ kéo dài không bao giờ dứt. Vậy mà cuối cùng rồi cũng ngủ mất.

Khi mở mắt thức giấc, bên ngoài đang mưa. Mưa nhỏ hạt âm thầm. Cơn mưa mùa xuân, chỉ để thấm ướt mặt đất. Chim giẻ xanh kêu dưới hàng hiên, kim đồng hồ chỉ gần 9 giờ. Tôi để nguyên quần áo ngủ, bước xuống tầng dưới. Cánh cửa ngăn giữa tiền sảnh và pḥng khách đang mở ra đúng như lúc tôi đi ngủ tối hôm qua. Pḥng khách không có ǵ xáo trộn cả. Cuốn sách tôi đọc vẫn úp mặt trên ghế sofa. Vụn bánh vẫn c̣n vương văi trên chiếc bàn thấp. Đă đoán trước như thế, nhưng tôi vẫn lấy làm lạ sao không thấy h́nh tích ǵ là đă có tiệc tùng ở đây đêm qua.

Trên sàn pḥng bếp, con chó Miles đang cuộn tṛn say ngủ. Tôi đánh thức nó dậy, cho nó ăn. Như đă chẳng có chuyện ǵ xảy ra, con chó phe phẩy tai vừa ngồm ngoàm nhai.

Bữa tiệc nửa khuya kỳ dị trong pḥng khách nhà Casey ấy chỉ xảy ra trong đêm đầu tiên mà thôi. Sau đấy hoàn toàn chẳng có ǵ lạ cả. Những đêm yên tĩnh, thầm kín của vùng Lexington tiếp nối nhau qua đi không có ǵ đặc biệt. Vậy mà chẳng hiểu sao, trong khoảng tôi ở đấy, hầu như đêm nào cũng thế, cứ đến giữa khuya là tôi mở mắt dậy. Lúc nào cũng khoảng ấy, từ 1 đến 2 giờ sáng. Có thể là v́ ngủ một ḿnh ở nhà người khác nên bồn chồn. Mà cũng có thể v́ trong ḷng tôi có nỗi mong chờ, sau một lần được biết buổi tiệc kỳ dị ấy.

Mở mắt thức giấc giữa khuya, tôi nín thở lắng tai nghe ngóng trong bóng tối. Nhưng chẳng nghe được tiếng động nào cả. Thỉnh thoảng, chỉ có tiếng lá cây ngoài vườn lao xao trong gió. Lúc ấy, tôi xuống nhà dưới, vào bếp uống nước. Con chó Miles lúc nào cũng cuộn người ngủ trên sàn pḥng, thấy tôi xuống th́ mừng, nhỏm dậy, quẫy đuôi, cạ đầu vào chân tôi.

Tôi dắt con chó vào pḥng khách, bật đèn, chăm chú nh́n quanh pḥng. Nhưng chẳng cảm nhận được động tĩnh ǵ. Ghế sofa và chiếc bàn thấp vẫn xếp hàng yên tĩnh ở chỗ mọi khi. Cũng vẫn khung tranh sơn dầu vô hồn, vẽ cảnh băi biển New England, treo trên tường. Tôi ngồi xuống sofa, chẳng làm ǵ cả trong khoảng 10, 15 phút. Mắt nhắm lại, tập trung tinh thần để nghĩ xem có t́m ra được chút h́nh tích ǵ đấy không. Nhưng chẳng cảm nhận được ǵ cả. Chung quanh tôi chỉ là đêm sâu bí hiểm của vùng ngoại ô thành phố. Mở cửa sổ hướng ra bồn hoa th́ ngửi thấy mùi hoa xuân nồng đượm. Màn cửa lay nhẹ trong gió đêm, nghe có tiếng cú rúc sâu trong rừng thưa.

Tôi định bụng sẽ không đả động ǵ đến chuyện đă xảy ra trong đêm ấy khi Casey từ London trở về. Không giải thích v́ sao cho song suốt được. Chỉ có cảm giác là chuyện này không nói với Casey th́ hơn. Nghĩ vẩn thế thôi.

-"Sao, trong lúc trông nhà hộ tôi, có chuyện ǵ lạ không?" Casey hỏi tôi khi về đến nhà.

-"Không, có ǵ lạ đâu. Rất là yên tĩnh, công việc cũng song suốt lắm." Mà đúng như thế thật.

-"Thế th́ tốt quá. Không c̣n ǵ bằng." Casey vui mừng nói. Rồi lấy trong cặp ra chai rượu Whisky mạch nha tặng tôi. Chúng tôi bắt tay nhau, từ giă, tôi lái chiếc Volkswagen về pḥng trọ ở Cambridge.

Sau đó, nửa năm tôi không gặp lại Casey lần nào. Chỉ có vài lần ông ta gọi điện thoại đến nói chuyện mà thôi. Cho tôi hay rằng người mẹ của Jeremy mất, người chỉnh dây đàn piano ít nói ấy đă không trở lại từ lúc đi West Virginia. Đúng vào khoảng ấy th́ tôi đang cắm cúi viết cho xong đoạn cuối của một tiểu thuyết dài, ngoại trừ trường hợp cần thiết, th́ không có th́ giờ để đi đâu hay gặp ai. Khoảng ấy, mỗi ngày tôi ngồi vào bàn, làm việc hơn 12 giờ, chẳng đi đâu khỏi phạm vi một cây số quanh nhà.

Lần cuối tôi gặp Casey là ở hiên cà-phê gần bến thuyền của sông Charles. Đi tản bộ mà t́nh cờ gặp ông ấy rồi cùng uống cà-phê. Không hiểu sao Casey trông già đi đến làm tôi ngạc nhiên, so với lần gặp trước. Trông ông khác hẳn đi, cứ như đă già thêm cả 10 tuổi. Tóc bạc thêm đă tràn phủ cả tai, dưới mắt đă thâm đen, thụng xuống như bao da. Những nếp nhăn trên lưng bàn tay đă tăng nhiều rồi. Đó là chuyện khó tưởng tượng ra đối với một người thanh lịch chú trọng tỉ mỉ đến ngoại h́nh như Casey. Không biết ông ấy có bệnh hoạn ǵ đấy không. Nhưng Casey không nói ǵ đến chuyện ấy cả nên tôi cũng không hỏi.

"Có lẽ là Jeremy chẳng c̣n trở lại Lexington nữa." Casey lắc đầu nhẹ, nói với giọng trầm buồn. Ông cho biết là thỉnh thoảng đă điện thoại nói chuyện với Jeremy ở West Virginia, nhưng nghe có vẻ Jeremy bị sốc v́ mẹ chết mà tâm tính thay đổi hẳn rồi. Hoàn toàn khác với Jeremy ngày trước. Hầu như bây giờ chỉ nói toàn chuyện chiêm tinh bói toán. Từ đầu đến cuối, chỉ nói toàn chuyện chiêm tinh. Ngày hôm nay tinh tú ở vị trí nào, do đó làm ǵ th́ tốt, làm ǵ không nên, toàn chuyện như thế. Lúc sống ở đây có bao giờ Jeremy nói chuyện sao này sao kia như thế đâu.

-"Thật đáng tiếc! I’m really sorry." Tôi nói. Tự ḿnh, không hiểu ḿnh đang nói về ai.

-"Lúc mẹ tôi mất th́ tôi mới 10 tuổi.", Casey nh́n cốc cà-phê, ôn tồn nói. -"Tôi không có anh chị em nào, nên chỉ c̣n bố tôi và tôi, hai người mà thôi. Mẹ tôi đă mất trong một tai nạn thuyền buồm vào đầu mùa thu năm ấy. Bố con tôi lúc ấy, hoàn toàn không chuẩn bị tinh thần đối với cái chết của mẹ tôi. Bà trẻ trung, khoẻ mạnh. Trẻ hơn bố tôi đến hơn 10 tuổi. Thế nên cả bố tôi lẫn tôi đều không hề nghĩ một ngày nào đó mẹ tôi lại có thể mất đi. Vậy mà th́nh ĺnh, bà đă không c̣n ở trên thế giới này nữa. Phụt một cái tan biến đi, cứ như là làn khói ǵ đấy. Mẹ tôi xinh đẹp, thông minh, ai cũng yêu mến. Thích tản bộ, có dáng đi rất đẹp, lưng thẳng, cằm hơi vươn ra trước, hai tay ṿng sau lưng, bước đi thật vui tươi. Hay vừa đi vừa hát. Tôi rất thích đi tản bộ với mẹ tôi. Tôi vẫn hằng nhớ h́nh dáng mẹ tôi bước đi trên đường ven bờ biển Newport trong nắng mai tươi mới của mùa hè. Gió thổi phơ phất vạt áo đầm mùa hè dài tươi mát của mẹ tôi. Chiếc áo bằng bông vải có hoa nhỏ đấy. Quang cảnh ấy đă khắc vào trí tôi như h́nh chụp rơ nét. Bố tôi rất yêu mẹ tôi, quư trọng bà lắm. Có lẽ ông yêu quư mẹ tôi nhiều hơn tôi là con trai của ông nữa. Bố tôi là người như thế. Ông yêu thương những ǵ chính tay của ông chiếm được. Đối với ông th́ tôi là chút ǵ đă tự nhiên mà lọt vào tay ông thôi. Tất nhiên, ông cũng yêu thương tôi. Bởi tôi là con trai duy nhất mà. Nhưng ông không yêu thương tôi bằng yêu thương mẹ tôi. Tôi rất hiểu điều đó. Bố tôi không c̣n có thể yêu thương ai khác bằng yêu thương mẹ tôi được. Sau khi mẹ tôi mất, ông không tái hôn lần nào. Đám tang mẹ tôi vừa xong th́ bố tôi ngủ vùi suốt 3 tuần. Nói thế không ngoa đâu. Thật sự, ông đă ngủ suốt khoảng thời gian ấy. Thỉnh thoảng như nhớ ra th́ lảo đảo bước khỏi giường, chẳng nói chẳng rằng lấy nước uống hay ăn chút ǵ đấy cho lấy có, thế thôi. Cứ như là người bị bệnh mộng du, hay bóng ma vậy. Nhưng chỉ trong phút chốc thôi, rồi lại chui vào chăn nằm ngủ. Tất cả cửa sổ đều đóng cả, cửa ngoài cũng đóng kín mít, trong căn pḥng tối mịt, không khí tù đọng, ông ngủ mê mệt cứ như là nàng công chúa say ngủ dưới lời nguyền phù thủy. Chẳng hề nhúc nhích. Chẳng hề trở ḿnh, mà đến sắc mặt cũng không thay đổi. Tôi đâm ra lo sợ, nhiều lần đă đến bên canh chừng xem ông có sao không. Chỉ sợ ông chết luôn trong giấc ngủ. Tôi đứng bên gối, nh́n trừng trừng vào mặt ông đang ngủ.

Nhưng ông đă không chết. Ông chỉ ngủ mê mệt như viên đá chôn vùi trong ḷng đất mà thôi. Có lẽ ông cũng đă chẳng mộng mị ǵ cả. Chỉ nghe có tiếng thở say ngủ đều đều trong căn pḥng tối tĩnh mịch ấy. Tôi chưa thấy ai ngủ say một giấc dài đến như thế. Thấy ông cứ như là người đă đi qua thế giới nào khác rồi. Tôi nhớ là đă sợ hăi quá đỗi. Trông ngôi nhà rộng lớn chỉ c̣n một ḿnh tôi hoàn toàn trơ trọi, cảm thấy ḿnh đă bị mọi người trên đời này bỏ rơi rồi.

Lúc bố tôi mất, 15 năm trước đây, tất nhiên là tôi đă đau buồn lắm, nhưng thành thật mà nói, tôi không ngạc nhiên ǵ mấy. Bởi h́nh dáng ông lúc chết cũng không khác ǵ h́nh dáng thời ông ngủ mê mệt ấy. Trông y hệt như thời ấy thôi. Như lặp lại lần nữa điều tôi đă thấy trước rồi. Nh́n thấy y chang đến bàng hoàng, tưởng như trọng tâm của thân thể ḿnh đă lệch hẳn đi. Tôi đă sao chép lại quá khứ nguyên vẹn như thể đă chẳng hề có khoảng cách thời gian đến gần 30 năm. Chỉ khác là lần này không nghe tiếng ông thở lúc say ngủ mà thôi.

Tôi thương bố tôi. Hơn bất cứ ai trên cơi đời này. Có kính trọng ông, nhưng hơn thế nữa, tôi được nối chặt với ông về tinh thần cũng như về t́nh cảm. V́ thế mà có chuyện kỳ quái xảy ra là, giống hệt như bố tôi lúc mẹ tôi mất đi, đến lúc bố tôi chết, th́ chính tôi lại cũng vào giường ngủ vùi như không bao giờ thức dậy nữa. Cứ như là thừa kế một thứ nghi thức của huyết thống đặc biệt ǵ đấy.

Có lẽ tôi đă ngủ suốt hai tuần lễ. Trong khoảng đó, tôi chỉ ngủ và ngủ,... ngủ mê mệt đến như thời gian mục rữa tan biến đi mất. Ngủ không ngừng, ngủ bao nhiêu cũng được. Ngủ bao nhiêu cũng không đủ. Lúc đó, đối với tôi, thế giới trong giấc ngủ mới là thế giới thực, chứ thế giới thực tại chỉ là thế giới giả tạo vô duyên, thứ thế giới mong manh, nông cạn, thiếu màu sắc. Đến nỗi tôi nghĩ sống làm ǵ nữa trong thứ thế giới như thế. Thế là cuối cùng tôi lư giải được những điều hẳn là bố tôi đă cảm nhận khi mẹ tôi mất đi. Anh hiểu điều tôi nói không? Nghĩa là, có những sự việc đă diễn ra dưới h́nh thái khác với đời thường đấy. V́ không thể không nhận h́nh thái khác được."

Sau đó, Casey im lặng một hồi như suy nghĩ ǵ đấy. Cuối mùa thu rồi, thỉnh thoảng có tiếng trái khô rụng xuống mặt đường nhựa vẳng đến tai tôi.

-"Có một điều có thể nói được...", Casey ngẩng mặt lên, khóe miệng nở nụ cười hiền hoà thanh lịch cố hữu. -"... là bây giờ, ngay nơi này đây, nếu tôi có chết đi, th́ trên đời này chẳng có ai v́ tôi mà ngủ mê mệt như thế nữa."

*

Thỉnh thoảng, tôi lại nhớ đến những bóng ma ở Lexington. Lũ ma bí hiểm đă mở tiệc huyên náo giữa khuya trong pḥng khách của ngôi nhà xưa cũ của Casey. Rồi tôi nhớ đến Casey và ông bố đă đóng kín cửa pḥng ngủ ở tầng trên mà ngủ mê mệt, liên tục và cô độc, như chuẩn bị làm người chết. Và nhớ đến con chó Miles thân thiện, bộ sưu tập đĩa nhạc tuyệt vời đến phải nín thở mà chiêm ngưỡng. Nhớ đến nhạc Schubert trong tiếng đàn của Jeremy, đến chiếc xe BMW màu xanh đậu trước cửa nhà. Cảm thấy những sự việc ấy sao mà xa vời, như đă xảy ra từ thời xa xưa nào trong quá khứ, ở nơi chốn nào xa vời vợi. Mà thật ra, lại là chuyện vừa mới trải qua đây chứ đâu.

Tôi chưa hề kể chuyện này cho ai nghe. Nghĩ cho cùng th́ hẳn là chuyện kỳ dị thật đấy, thế nhưng có lẽ v́ cảm giác xa xôi vời vợi ấy mà tôi lại chẳng thấy ǵ là kỳ dị cả.

 

 

Phạm Vũ Thịnh dịch



Chú thích:

Truyện ngắn "Lexington no yurei" đă ra mắt người đọc trên tạp chí Gunzo số tháng 10  năm 1996, bản dịch Việt ngữ "Bóng Ma ở Lexington" là truyện thứ 8 trong tập truyện cùng tên từ nhà xuất bản Đà Nẵng năm 2007.