Nói Chuyn Vi K-Lân

(Conversations With Unicorns)

Peter Carey

Phạm Vũ Thịnh dịch


 

Lời người dịch :

Tuyển tập truyện ngắn "Ông Mập Trong Lịch Sử - The Fat Man In History" xuất bản năm 1974 là giàn phóng đă đưa Peter Carey lên quỹ đạo của những tiểu thuyết gia tiếng Anh được biết đến nhiều nhất hiện nay trên thế giới, mở đầu một sự nghiệp văn học lớn, trong đó có 2 lần đoạt giải thưởng Booker.

Truyện ngắn sau đây, là truyện thứ 10 trong tuyển tập, được dịch từ nguyên bản tiếng Anh trong bản "The Fat Man In History" do University of Queensland Press tái bản lần thứ 10 năm 1998.

 

1

Đám kỳ-lân[1] vẫn không hiểu. Tôi đă nhiều lần nói chuyện với họ nhưng khó làm cho họ hiểu quá. Họ khăng khăng cho là tôi đến chỉ để lấy xác của một người trong bọn họ, nhưng cùng lúc, họ vạch ra rằng không c̣n xác nào cả v́ một người đàn ông khác đă đến lấy đi trước tôi rồi. Họ tiếp tục kiên tŕ ở các điểm ấy, và cười diễu rằng tôi đă đến v́ một thứ không c̣n có ở đấy. Tôi hỏi tại sao họ lại nghĩ rằng tôi chỉ có thể đến v́ một lư do ấy thôi, th́ họ đáp là bao lâu nay chỉ có chuyện ấy chứ chẳng có ǵ khác; những người đàn ông đến, như những con kên-kên, khi có ai chết, chỉ để lấy xác mang đi. Tôi gợi ư rằng con người là tàn nhẫn, nhưng họ phủ nhận điều nầy, nói rằng con người thi hành những công tác mà Thượng Đế giao cho một cách hiệu quả. Họ bảo con người không thể bị bắt phải chịu trách nhiệm về cái chết của loài kỳ-lân.

Tôi đề cập đến súng. Nhưng họ không biết ǵ về súng, hay hoá ra là, về bất cứ loại vũ khí nào. V́ thế, tôi gắng mô tả cho họ về cái hào sâu chạy ngang phần trên của dăy núi, băi đậu xe sau hào, và những chiếc xe hơi đến băi, chất đầy người và súng. Họ không có ư niệm ǵ về tính chất của xe hơi hay công dụng của chúng. Đây là một chuyện dài ḍng và tôi không trả lời những câu hỏi của họ về tính chất của xe hơi. Thay vào đấy, tôi giải thích rằng đầu của kỳ-lân rất có giá đối với những người trả 3 ngàn bảng Anh cho đặc quyền được bắn kỳ-lân. Tôi giải thích chuyện người ta nấp vào hào sâu ấy và đợi cho kỳ-lân chạy ngang qua đồng cỏ.

Khi tôi trở lại chuyện súng th́ họ cười ngất, cười ḅ lăn trong hang động. Thủ lănh của họ là Moorav tươi cười cảnh cáo tôi đừng phạm thánh, bảo rằng chỉ có Thượng Đế mới có quyền lực để lấy mất sự sống. Rồi ông kể cho tôi biết rằng thời nguyên thủy, loài kỳ-lân sống trường sinh, được người ta và các giống vật khác kính nể, không có kẻ thù thiên nhiên nào cả. Nhưng đấy là thời vô thần, trước khi Thượng Đế giáng hạ trên đời. Ông cho tôi biết rằng Thượng Đế đă truyền thụ cho loài kỳ-lân, tôi dùng chữ chính xác từ miệng ông, "lộc Trời là sự Chết".

Ông nhớ lại một truyện xưa kể rằng loài kỳ-lân đă được đưa từ một vùng đất nóng và lạ, băng qua vùng nước mà đến đồng cỏ nầy, giờ đây đă trở thành quê nhà của họ. Chính ở đây mà Thượng Đế đă phán rằng phái Nam phải ở chung với nhau trong những hang ở Đồi Bắc, và phái Nữ trong những hang ở Đồi Nam. Những luật nầy vẫn c̣n được tuân thủ nghiêm cẩn đến ngày nay.

Tôi hỏi có phải Thượng Đế trong truyện ấy có h́nh dạng của một người đàn ông hay không, th́ Moorav trả lời rằng ông không nghĩ thế, Thượng Đế nếu phải lấy h́nh dạng nào, chắc chắn đă chọn h́nh dạng của kỳ-lân, mặc dù ông không phải là nhà chuyên môn về chuyện nầy, và tốt hơn là tôi hăy hỏi một trong những giáo sĩ để kiểm chứng.

Tôi nhấn mạnh rằng kỳ-lân chỉ bị giết ở khoảng giữa hang của phái Nam và hang của phái Nữ, gồm khoảng 2 dặm đồng cỏ lộ thiên. Moorav bảo rằng việc nầy chỉ là tự nhiên thôi, v́ họ đâu có đi nơi nào khác. Ông không lấy làm lạ tại sao kỳ-lân không bao giờ chết trong hang, v́ nói cho cùng, thế mới là b́nh thường.

Trong mắt tôi, kỳ-lân bắt đầu có vẻ ngu muội, nhưng điều ấy lại càng làm mạnh thêm ư tôi muốn bảo vệ họ khỏi bọn kỹ nghệ gia giàu có ṃ đến săn họ. Tôi kiên nhẫn khuyên họ phải coi chừng những con người t́m đến để giết họ, nhấn mạnh rằng Thượng Đế không bắn súng. Họ trở nên nghiêm chỉnh hơn về điểm nầy khiến tôi nghĩ có lẽ tôi đă đạt được một bước tiến.

Moorav rời ṿng họp đi hội ư với những kỳ-lân khác ở sâu trong hang. Với nhóm c̣n lại, tôi nói rằng nếu có Thượng Đế th́ chắc chắn Ngài không dùng súng. Tôi bắt đầu giải thích tính chất của súng, cơ cấu của nó. Tôi chọn mô h́nh là khẩu Lee Enfield .303 mà tôi có chút ít kinh nghiệm sử dụng. Tôi vẽ nó lên lớp bụi trên sàn hang. Tôi giải thích về chiến tranh và sự si mê của con người đối với những vũ khí c̣n phức tạp và tàn nhẫn hơn thứ vũ khí tôi vừa giảng giải cho họ. Tôi cho họ biết chi tiết về sự tàn nhẫn của con người đối với đồng loại và với loài vật. Tôi đưa ra những thí dụ về việc tàn sát giống hải cẩu, việc sát hại có hệ thống giống cừu và ḅ, việc khuất phục giống ngựa, việc săn giết giống sư tử, việc lập ra những sở thú và gánh xiếc thú vật. Tuy nhiên, phần lớn những thú vật nầy đều xa lạ đối với họ, tuy sư tử th́ có được nhắc đến trong các huyền thoại của họ.

Tôi hỏi họ ăn thức ǵ. Hiểu lầm là lời yêu cầu, họ mang thức ăn đến cho tôi : mật hoang, bánh ḿ nâu, và sữa. Tôi hỏi họ có ăn thịt không. Họ không hiểu. Tôi giải thích rằng thịt mà giống người ăn ấy, lấy từ thân súc vật. Họ lại hiểu lầm là tôi yêu cầu, tuy tôi đă nói rơ ràng là không phải thế, họ vẫn bối rối và nói thầm th́ với nhau.

Tôi tiếp tục nói về tội ác của con người, nhưng lại bị cắt ngang bởi Moorav đă trở lại với 2 kỳ-lân trong bọn. Ông yêu cầu tôi ngừng câu chuyện. Tôi đáp rằng tôi chỉ lo cho sự an toàn của họ. Ông giới thiệu 2 bạn, trong đó một là giáo sĩ thông thạo đạo lư và giới luật của Thượng Đế. Giáo sĩ già, có hàm râu trắng mà tôi không thấy ở các kỳ-lân khác. Tôi giải thích một lần nữa, cho giáo sĩ nầy, về tính cách của con người, nhu cầu giết và ăn thịt những sinh vật khác của con người.

Nói đến đấy, tôi thấy ḿnh bị ép hai bên bởi hai kỳ-lân trẻ, các ṿng hông to tướng của họ gần như ép dẹp bộ xương sườn của tôi. Giáo sĩ nói ǵ đấy về tội phạm thánh.

Tôi nói tôi đến đây chỉ để cứu họ khỏi sự chết. Tôi không đến đây để tranh biện về thần học, mà chỉ nói sự thật thôi. Tôi hỏi họ có phải cái chết nào của kỳ-lân cũng luôn luôn đi kèm với tiếng nổ lớn không. Giáo sĩ đáp rằng đúng như thế, nhưng cũng có nhiều tiếng nổ lại không phải là dấu hiệu của sự chết.

Tôi trở lại một lần nữa việc giải thích về súng, đạn và đạn đạo. Giáo sĩ hỏi tôi tại sao kỳ-lân không bao giờ thấy những thứ ấy cả. Tôi mô tả, một lần nữa, cái hào sâu chạy ngang phần đỉnh của dăy núi, và giải thích, một lần nữa, rằng con người có thể giết từ khoảng xa như thế. Tôi giải thích đầu của kỳ-lân bị cắt rời khỏi thân như thế nào, và treo lên tường nhà của những người giàu như thế nào.

Tôi trở nên giận dữ. Họ tiếp tục th́ thào với nhau, không chịu nghe. Giọng nói của họ, lúc đầu c̣n dễ nghe, dần dần trở nên thô lỗ và v́ thế, ngu độn hơn.

Và có vẻ họ trở nên bất b́nh đối với tôi. Họ xé rách lưng áo tôi. Họ bắt tôi quỳ xuống rồi ḅ bằng tay chân, họ lấy sừng húc tôi từ mọi phía. Họ gọi tôi là tên phạm thánh. Nước mắt tôi chảy ra nhưng không phải v́ đau đớn. Một kỳ-lân to lớn th́nh ĺnh ngồi đè lên tôi, ép mặt tôi vào bụi đất. Xương hông tôi hẳn đă găy rồi.

Tôi nghe đau như xé thịt bên hông và đầu bị một cú đập mạnh. Tôi chỉ c̣n nhớ có thế.

 

2

Đám người đi săn t́m thấy tôi trên đồng cỏ và không biết ǵ về những hoạt động sứ mệnh của tôi, đă đối xử tử tế và đưa tôi vào một bệnh viện gần đấy để tôi được săn sóc chu đáo. Khi xuất viện, với chân phải c̣n bó bột và xương sườn băng bó vững vàng, tôi trở lại đồng cỏ, mang theo cây súng trường mới mua. Tôi định sẽ biểu diễn cho kỳ-lân xem đặc tính của cây súng, và nếu may mắn, sẽ dàn xếp để họ di tản khỏi khu vực ấy đến những vùng xa hơn trên đồng cỏ, nơi họ có thể sinh sống mà không bị ai thấy. Tôi không ghét giận ǵ họ về chuyện bị họ hành hung. Đấy là sản phẩm của sự ngu tối mà tôi nghĩ sẽ không xảy ra nữa.

 

3

Moorav ngạc nhiên khi thấy tôi trở lại. nhưng ông và nhóm ông tỏ ra tử tế đối với tôi. Họ cho tôi ăn đầy đủ và giáo sĩ c̣n đến ăn bánh ḿ cạnh tôi, hỏi thăm tôi đă hồi phục chưa. Ông ta gọi cung cách tôi đă làm là "chuyện rối rắm của anh" và hỏi tôi đă khá hơn không.

Tôi nói tôi có đem theo một vật có thể chứng minh điều tôi đă nói là đúng. Giáo sĩ nói ông hy vọng rằng tôi không sắp sửa lặp lại tất cả chuyện đă làm lần trước. Tôi chỉ cây súng và cho nó một tên gọi. Ông nh́n cây súng và hỏi vài câu mà tôi trả lời dễ dàng. Các câu hỏi ấy hướng về vật liệu chế tạo hơn là về công dụng của cây súng.

Sau bữa ăn, tôi thuyết phục được họ cùng đi ra cửa hang. Moorav có vẻ lưỡng lự, nhưng tôi đă nài nỉ được. Với kỳ-lân đứng thành nửa ṿng tṛn sau lưng, tôi nâng súng lên vai và bắn ra ngoài đồng cỏ. Kỳ lạ thay, họ chẳng lộ vẻ ǵ ngạc nhiên cả. Họ bảo tiếng nổ ấy chẳng giống tiếng nổ gây ra sự chết, và để chứng minh, họ vạch rơ rằng thực tế chẳng có ai chết cả. Và một lần nữa, họ lại cười nhạo tôi. Càng làm tôi nổi giận, và khắc khoải muốn chứng tỏ điều tôi nói. Sau cùng Moorav bước đến đề nghị rằng chỉ có thể dứt điểm vấn đề bằng cách tôi dùng vũ khí ấy ngay trên ông ta. Tôi nói không được v́ vũ khí ấy sẽ giết ông. Ông lại cười bảo tôi sợ thất bại nên nói thế thôi. Tôi để ư trong lần thứ hai đến gặp họ nầy, họ đối xử với tôi như với một thằng điên, có lẽ họ đă quyết đoán rằng tôi ngu xuẩn nhưng vô hại. Tội phạm thánh không c̣n được nhắc đến nữa.

Tôi buồn bă hỏi Moorav có thực ông sẵn sàng chết v́ dân của ông không. Ông nói chỉ có kỳ-lân của thời vô thần mới khỏi chết thôi, ông không sợ chết.

Tôi không c̣n suy tính ǵ nữa bởi tôi biết rằng nếu tôi suy tính kỹ, sẽ không bao giờ có thể chứng minh được điều tôi nói với họ. Tôi nâng súng lên nhắm vào đầu Moorav. Tôi lưỡng lự một lúc, nhưng rồi, nghe đám kỳ-lân vẫn c̣n cười cợt chế diễu sau lưng, tôi bóp c̣ súng. Moorav rên lên, lảo đảo. Máu phọt ra từ vết thương trên đầu, ông từ từ qụy xuống, mắt trợn trắng.

Im ĺm sau lưng tôi. Không c̣n tiếng ai nói ǵ nữa.

 

4

Tôi tự tay chôn Moorav trong nấm mộ cạn. Công việc tiến chậm v́ kỳ-lân không có dụng cụ đào đất, và họ vẫn c̣n có ư chờ người nào đấy đến lấy xác đi, người nào đấy ngoài tôi.

 

5

Trong hang, im lặng suốt ngày. Kỳ-lân tụ lại từng đám nhưng không nói ǵ cả. Cuối cùng, giáo sĩ đến gần tôi ra dấu muốn nói ǵ đấy với tôi. Ông nói tôi đă làm một chuyện sai trái nghiêm trọng đối với dân của ông, tôi đă lấy mất đi "lộc Trời là sự Chết" của họ. Ông bảo rằng bây giờ th́ dân của ông sẽ phải dời đến một vùng khác của đồng cỏ nầy, như ư nguyện của tôi. Rồi họ sẽ trở lại với thời cũ và không ai phải chết cả. Không có thần thánh mà cũng không có kẻ thù, kỳ-lân sẽ từ từ ch́m đắm vào tuyệt vọng sâu thẳm, sống những giờ phút t́m kiếm giấc ngủ trong đó có lẽ họ mơ được chết. Rồi họ sẽ quên rằng đă có thể chết một thời xa xưa nào đấy.

Giáo sĩ c̣n thổ lộ rằng ông đă cố gắng thuyết phục kỳ-lân ở lại đây, nhưng họ sợ hăi quá, và nếu ông định dùng quyền lực của ông mà bắt buộc th́ họ cũng sẽ chẳng nghe lời ông. Ông chỉ yêu cầu tôi một điều, là tôi hăy dùng vũ khí ấy trên ông. Ông xem đấy là một ân huệ lớn.

Tôi buồn rầu nạp đạn vào súng. Bên trong hang, đám kỳ-lân nằm im ĺm, không hiểu rằng họ sẽ phải sống măi măi.

Phạm Vũ Thịnh dịch


[1] Kỳ-lân - Unicorn : Giống thú huyền thoại có h́nh dạng ngựa có một sừng thẳng nơi mặt, tự điển Việt Nam dùng chữ "kỳ-lân" để diễn dịch.